Nhìn lại nền kinh tế Việt Nam sau 30 năm đổi mới

TCCSĐT - Trong dự thảo Văn kiện Đại hội XII, Đảng ta đánh giá: Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triển.
Tuy nhiên, kinh tế nước ta hiện phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng, yêu cầu và thực tế nguồn lực được huy động. Trong 10 năm gần đây, kinh tế vĩ mô thiếu ổn định, tốc độ tăng trưởng kinh tế suy giảm, phục hồi chậm. Chất lượng, hiệu quả, năng suất lao động xã hội và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Phát triển thiếu bền vững. Khi đề cập đến phương hướng phát triển trong giai đoạn mới, Văn kiện khẳng định: Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Từ nhận thức về kinh tế thị trường

Nhận thức của Đảng và nhân dân ta ngày càng rõ, sát thực tế hơn tính tất yếu, mục tiêu, bản chất, đặc trưng, cấu trúc, thể chế và cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ chỗ không thừa nhận sự tồn tại của kinh tế hàng hóa dưới chủ nghĩa xã hội (trước đổi mới), đến thừa nhận kinh tế hàng hóa có những mặt tích cực cần vận dụng (Đại hội VI của Đảng), xác định “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” (Đại hội IX của Đảng), và “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản” (Đại hội XI của Đảng). Đây là một bước chuyển quan trọng về nhận thức lý luận.

Trước đổi mới chúng ta chỉ thừa nhận nền kinh tế có 03 thành phần (quốc doanh, tập thể và cá thể), 03 hình thức sở hữu (toàn dân, hợp tác xã và tư nhân). Sau đổi mới, chúng ta đã khẳng định, nền kinh tế nước ta bao gồm, nhiều hình thức sở hữu, thành phần kinh tế và tổ chức kinh doanh. Trong đó, công ty cổ phần với sở hữu hỗn hợp ngày càng phát triển. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân; kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. 

Trước đổi mới, nền kinh tế nước ta cũng chỉ có 02 hai hình thức phân phối cơ bản là phân phối theo lao động và phân phối theo phúc lợi xã hội. Cho đến nay nhận thức về phân phối đã được định hình, các hình thức phân phối được đa dạng hóa, phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế được coi trọng. 

Về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đại hội VII của Đảng đã đánh dấu bước tiến trong tư duy lý luận, chuyển từ quan niệm công nghiệp hóa truyền thống sang quan niệm “công nghiệp hóa theo hướng hiện đại”. Đại hội VIII đề ra mục tiêu và 6 quan điểm lớn chỉ đạo quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đại hội IX tiếp tục xác định Chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp. 

Đại hội X và XI, Đảng xác định phải gắn công nghiệp hóa với hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức phù hợp với kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế; phát huy tiềm năng và lợi thế so sánh của đất nước; kết hợp vai trò của thị trường với vai trò của Nhà nước; phát huy có hiệu quả mọi nguồn lực, bên trong, bên ngoài và đặc biệt là nguồn lực của nhân dân. Đến Đại hội XII, Đảng ta xác định “Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.

Về cơ cấu kinh tế nước ta đã bước đầu chuyển dịch theo hướng hiện đại. Tỷ trọng các ngành, trình độ công nghệ sản xuất, cơ cấu lao động đã chuyển dịch theo hướng tích cực; tỷ trọng lao động của các ngành, qua đào tạo đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế. Việc khai thác, sử dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường gắn với phát triển bền vững đã mang lại kết quả; ứng dụng khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ cao có tiến bộ, tạo tiền đề tiếp cận kinh tế tri thức.

Đến vận hành nền kinh tế có hiệu quả hơn 

Tư tưởng, đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã từng bước được thể chế hoá thành pháp luật, cơ chế, chính sách. Trong 30 năm đổi mới, Quốc hội nước ta đã 03 lần sửa đổi và ban hành Hiến pháp, sửa đổi và ban hành trên 150 bộ luật và luật; Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng ban hành trên 70 pháp lệnh, tạo cơ sở pháp lý cho sự chuyển đổi và vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 

Các hình thức sở hữu, thành phần kinh tế và chế độ phân phối đã phát triển đa dạng, từng bước tuân thủ các quy luật của kinh tế thị trường phù hợp với điều kiện của đất nước. Các chủ thể kinh tế được tự do kinh doanh và cạnh tranh lành mạnh theo quy định của pháp luật, ngày càng phát huy vai trò tích cực trong nền kinh tế quốc dân. Kinh tế nhà nước từng bước phát huy vai trò chủ đạo; hệ thống doanh nghiệp nhà nước được cơ cấu lại, cổ phần hoá và đang giảm mạnh về số lượng. Kinh tế tập thể bước đầu được đổi mới, các hình thức hợp tác kiểu mới được hình thành phù hợp hơn với cơ chế thị trường. Kinh tế tư nhân tăng nhanh về số lượng, từng bước nâng cao hiệu quả kinh doanh, giải quyết việc làm, đóng góp ngày càng lớn vào GDP. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển, các doanh nghiệp FDI đã có những đóng góp quan trọng vào việc thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết việc làm và xuất khẩu. 

Các yếu tố thị trường và các loại thị trường đang hình thành, phát triển, cơ bản đã có sự liên thông, gắn kết thị trường trong nước với thị trường khu vực và quốc tế. Thị trường hàng hóa, dịch vụ tăng về số lượng, chủng loại, chất lượng; đã có bước phát triển và hoàn thiện về quy mô, cơ cấu, kết cấu hạ tầng thương mại, dịch vụ, cơ chế quản lý, năng lực cạnh tranh. Giá cả hầu hết các loại hàng hoá, dịch vụ đã vận hành theo giá thị trường, được xác định theo quan hệ cung cầu. Thị trường lao động đã được hình thành với nguồn cung lao động khá dồi dào trên phạm vi cả nước, bước đầu đã tham gia thị trường quốc tế. Thị trường tài chính - tiền tệ phát triển khá sôi động. Thị trường bất động sản phát triển mạnh, thị trường khoa học - công nghệ đang hình thành và có bước phát triển nhất định. 

Hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng theo nguyên tắc và chuẩn mực của thị trường thế giới; đã tiến hành nhiều cải cách thể chế theo hướng minh bạch, tự do hóa và có tính giải trình; gia nhập và tích cực xây dựng AEC; từng bước hoàn thiện thị trường đầy đủ theo quy định của WTO; chuẩn bị sẵn sàng đón nhận cơ chế vận hành của Hiệp định TPP; tham gia có hiệu quả các liên kết kinh tế khu vực và quốc tế trên nhiều cấp độ, nhất là trong xây dựng quan hệ đối tác hợp tác chiến lược về kinh tế và các FTA thế hệ mới với những tiêu chuẩn cao.

Đảng đã ban hành và lãnh đạo tổ chức thực hiện nhiều nghị quyết, chủ trương về kinh tế; kịp thời điều chỉnh những chủ trương, giải pháp phù hợp với sự thay đổi của tình hình, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh… Sự quản lý, điều hành của Nhà nước đối với kinh tế thị trường sát thực và hiệu quả hơn. Việc sử dụng các công cụ quản lý kinh tế, điều tiết nền kinh tế vĩ mô có tiến bộ. Phát huy dân chủ trong lĩnh vực kinh tế, thực hiện ngày càng tốt hơn vai trò làm chủ về kinh tế của nhân dân. 

Sau 30 năm đổi mới, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã từng bước hình thành và phát triển; thể chế kinh tế được quan tâm xây dựng và từng bước hoàn thiện. Thực lực của nền kinh tế tăng lên; kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định; lạm phát được kiểm soát; tăng trưởng kinh tế được duy trì hợp lý và được đánh giá là thuộc nhóm nước có mức tăng trưởng khá cao trên thế giới. 

Đại hội XI đã khẳng định, đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Môi trường đầu tư được cải thiện, đa dạng hóa được nhiều nguồn vốn đầu tư cho phát triển. Đại hội XII đã đưa ra nhận định quan trọng: “Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triển”. Tuy nhiên, kinh tế chủ yếu phát triển theo chiều rộng, chậm chuyển sang phát triển theo chiều sâu; thiếu bền vững do nhiều nguyên nhân cần được làm rõ và tiếp tục khắc phục trong quá trình đổi mới trong thời gian tới với chất lượng cao hơn.

Và những bài học quý đã được rút ra…

Đạt được những thành tựu quan trọng có ý nghĩa lịch về mặt kinh tế nêu trên là nhờ có nhận thức đúng đắn của Đảng và nhân dân ta về tính tất yếu của sự phát triển kinh tế thị trường; quyết định chuyển từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xác định phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, kiên trì lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các quyết sách về kinh tế, được nhân dân đồng tình ủng hộ và tích cực tham gia thực hiện. 

Những hạn chế, yếu kém của nền kinh tế hiện tại là do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. Trong đó phải kể đến là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta được xây dựng trong điều kiện chuyển đổi thể chế kinh tế với xuất phát điểm thấp, kinh tế đất nước còn nhiều khó khăn, thường xuyên chịu thiên tai, dịch bệnh; kinh tế thế giới có nhiều biến động bất thường, khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã có những tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế của nước ta. Tuy nhiên, những bài học quý giá cũng đã được rút ra sau 30 năm đổi mới trên lĩnh vực kinh tế: 

Một là, trong quá trình đổi mới toàn diện đất nước, ngay từ đầu Đảng ta xác định lấy đổi mới kinh tế là trọng tâm. Việc chủ động, sáng tạo trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam… đã thể hiện trước hết và trên hết ở lĩnh vực kinh tế, mà trọng điểm là xây dựng nền kinh tế thị trường vừa bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa với những đặc trưng đặc điểm của Việt Nam, vừa tương thích với nền kinh tế thế giới đang trong quá trình toàn cầu hóa ngày càng rộng hơn, sâu hơn.

Hai là, quá trình đổi mới kinh tế, việc quán triệt quan điểm “dân là gốc”, thể hiện ở nội dung yêu cầu là phát huy vai trò làm chủ, sức sáng tạo, tinh thần đoàn kết, dân chủ hóa, nhằm phát huy mọi nguồn lực của nhân dân phải được thể hiện trên các tiêu chí hiệu quả tổng hợp, kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh, đối ngoại… thông qua đa dạng hóa các hình thức sở hữu, thành phần kinh tế, loại hình sản xuất kinh doanh, phân phối, và quản lý; dân chủ về kinh tế vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 

Ba là, đổi mới về kinh tế cũng phải toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp; tôn trọng quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra, nhất là trong bối cảnh chuyển đổi thể chế kinh tế với nhiều tác động bất thường của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đang ở giai đoạn bắt đầu phục hồi nhưng chưa vững chắc gây tác động tiêu cực đến nền kinh tế nước ta.

Bốn là, trên lĩnh vực kinh tế, cũng phải đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết; kiên định độc lập, tự chủ về kinh tế, đồng thời chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi; kết hợp phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trên lĩnh vực kinh tế, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. 

Năm là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực kinh tế; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ điều hành vĩ mô nền kinh tế, đủ năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ; nâng cao hiệu lực, hiệu quả điều hành nền kinh tế của Nhà nước kết hợp với sự tham gia của cả hệ thống chính trị bảo đảm cho nền kinh tế nước nhà phát triển nhanh và bền vững.

Nhìn lại 30 năm qua, trong bối cảnh quốc tế và khu vực diễn biến phức tạp, khó lường; trong nước những thời cơ, thuận lợi, khó khăn, thách thức đan xen, thế mà chúng ta đã đạt được “những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử” cả trên lĩnh vực kinh tế cũng khẳng định đổi mới là sự lựa chọn chính xác và chứng minh đường lối đổi mới nói chung và đổi mới kinh tế kinh tế nói riêng của Đảng ta là đúng đắn, khoa học, sáng tạo. Sự vấp váp, hạn chế, thậm chí yếu kém trên con đường phát triển càng chứng tỏ đổi mới là một sự nghiệp khó khăn, lâu dài, phức tạp, đòi hỏi phải chủ động, kiên định và không ngừng sáng tạo, phải thường xuyên tổng kết thực tiễn, đúc rút những kinh nghiệm thành lý luận để điều chỉnh, hoàn thiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng “để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”, thực hiện mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”./. 

Nguyễn Nhâm