Phát huy vai trò của Nhà nước trong thúc đẩy phát triển kinh tế xanh ở Việt Nam

TCCSĐT - Hiện nay, kinh tế xanh là sự lựa chọn chiến lược của nhiều quốc gia ở khu vực và trên thế giới. Hiệu quả và thành công từ mô hình dựa trên chiến lược phát triển kinh tế xanh, thói quen tiêu dùng xanh, tiêu dùng thông minh trên thế giới là không thể phủ nhận dưới nhiều khía cạnh kinh tế - xã hội, môi trường tự nhiên. Là một trong năm quốc gia bị tác động nghiêm trọng nhất bởi biến đổi khí hậu, Việt Nam cần có những giải pháp quyết liệt trong sự chuyển dịch nền kinh tế theo hướng xanh hóa.
1. Thúc đẩy kinh tế xanh, tăng trưởng xanh ở Việt Nam không chỉ là yêu cầu trong quá trình hội nhập hiện nay, mà quan trọng hơn là xuất phát từ yêu cầu nội tại của nền kinh tế nước ta, với những yếu kém, bất cập, đòi hỏi phải chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Đó là chất lượng tăng trưởng kinh tế còn thấp, phát triển chưa bền vững, sức cạnh tranh của nền kinh tế yếu, hiệu quả thấp; sự gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội chưa thật chặt chẽ và bền vững; tăng trưởng kinh tế phụ thuộc nhiều vào vốn đầu tư và khai thác tài nguyên, phát sinh nhiều chất thải gây ô nhiễm môi trường; tình hình an ninh lương thực, an sinh xã hội, dịch bệnh diễn biến phức tạp... Quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên còn lãng phí, chưa hiệu quả và bền vững. Một số loại tài nguyên bị khai thác quá mức dẫn tới suy thoái, cạn kiệt; ô nhiễm môi trường gia tăng, có nơi rất nghiêm trọng; việc khắc phục hậu quả về môi trường còn chậm và chưa hiệu quả; nguy cơ mất cân bằng sinh thái đang diễn ra trên diện rộng, ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội, sức khỏe và đời sống nhân dân.

Trước yêu cầu ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo vệ tài nguyên, môi trường, Hội nghị Trung ương 7 khóa XI đã ban hành Nghị quyết về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường, trong đó, một trong những nhiệm vụ trọng tâm là đổi mới mô hình tăng trưởng, hướng tới nền kinh tế xanh, thân thiện với môi trường. 

Chiến lược Tăng trưởng xanh trong giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn đến năm 2050 do Chính phủ ban hành xác định các nhiệm vụ chủ yếu:

- Xanh hóa sản xuất: Tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng chuyển từ phát triển theo chiều rộng sang phát triển theo chiều sâu, giảm sử dụng tài nguyên thiên nhiên, tăng cường các ngành công nghiệp sinh thái và dịch vụ môi trường, đổi mới công nghệ, sử dụng công nghệ tiên tiến, thân thiện với môi trường. Các nhiệm vụ cụ thể bao gồm: i). Xanh hóa sản xuất thông qua sắp xếp lại cơ cấu, đặc biệt là hạn chế phát triển những ngành kinh tế phát sinh chất thải lớn, gây ô nhiễm, suy thoái môi trường. ii). Sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên, đặc biệt là tài nguyên nước, tài nguyên đất và tài nguyên khoáng sản. iii). Phát triển kết cấu hạ tầng bền vững. iv). Đổi mới công nghệ, áp dụng, phổ biến công nghệ sản xuất sạch hơn.

- Giảm cường độ phát thải khí nhà kính trên đơn vị tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội và tăng tỷ lệ sử dụng năng lượng tái tạo, giảm phát thải khí nhà kính. Các nhiệm vụ cụ thể bao gồm: i). Cải thiện hiệu suất và hiệu quả sử dụng năng lượng, giảm mức tiêu hao năng lượng trong hoạt động sản xuất, vận tải, thương mại. ii). Chuyển đổi nhiên liệu trong các ngành công nghiệp và giao thông vận tải. iii). Đẩy mạnh khai thác có hiệu quả các nguồn năng lượng mới và năng lượng tái tạo nhằm từng bước gia tăng tỷ trọng của các nguồn năng lượng sạch trong sản xuất và tiêu thụ năng lượng của quốc gia, giảm dần sự phụ thuộc vào nguồn năng lượng hóa thạch, tăng cường an ninh năng lượng, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. iv). Giảm phát thải khí nhà kính thông qua phát triển nông nghiệp hữu cơ bền vững, hạn chế sử dụng thuốc trừ sâu, các loại phân bón độc hại với môi trường, nâng cao tính cạnh tranh của sản xuất nông nghiệp.

- Xanh hóa lối sống và tiêu dùng bền vững: Xanh hóa sản xuất không thể tách rời xanh hóa lối sống và phương thức tiêu dùng bền vững của xã hội. Các nhiệm vụ cụ thể bao gồm: i). Thực thi chính sách đô thị hóa theo quy hoạch bền vững, phát triển hài hòa, nâng cao chất lượng sống cho người dân. Quy hoạch phát triển đô thị và quản lý quy hoạch cần đạt được các tiêu chí về hiệu quả sinh thái và bảo đảm xã hội. ii). Xây dựng nông thôn mới với lối sống hài hòa với môi trường, thực hiện các nội dung của Chương trình Mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới, kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường, phát triển giáo dục, y tế, văn hóa và công bằng xã hội nhằm đảm bảo phát triển nông thôn bền vững. iii). Thúc đẩy tiêu dùng bền vững và xây dựng lối sống xanh, thay đổi mô hình và hành vi tiêu dùng theo hướng bền vững của cả tiêu dùng cá nhân, tiêu dùng nhà nước và xã hội.

2. Chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, tăng trưởng xanh là một quá trình, sự hội tụ, tác động của nhiều yếu tố theo cách tiếp cận tư duy hệ thống. Về cơ bản, nổi lên vai trò của Nhà nước với tư cách người tạo lập thể chế, định hướng chuyển đổi sang nền kinh tế xanh; với tư cách là nhà đầu tư, tập trung nỗ lực đầu tư để dẫn dắt doanh nghiệp và người dân hướng tới nền kinh tế xanh, tiêu dùng xanh, đầu tư cho nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ xanh. Còn với vai trò là người tiêu dùng, Nhà nước sử dụng các sản phẩm và dịch vụ xanh, nói không với các sản phẩm và dịch vụ không thân thiện với môi trường. Tiếp đến là vai trò của cộng đồng doanh nghiệp trong việc nhận thức yêu cầu xanh hóa nền kinh tế, áp dụng các quy trình sản xuất và công nghệ thân thiện với môi trường, nỗ lực đầu tư, nghiên cứu cải tiến quy trình sản xuất và công nghệ nhằm hạn chế những tác động tiêu cực đến môi trường. 

Cách tiếp cận tư duy hệ thống đòi hỏi bên cạnh việc phân tích vai trò của từng yếu tố phải chú ý đến việc tương tác, mối quan hệ nhân quả, cộng hưởng hay triệt tiêu nhau của các yếu tố đó. Đồng thời, trong hệ thống, tương quan giữa các yếu tố không chỉ có các hậu quả trực tiếp mà còn có cả hậu quả gián tiếp nữa. Như vậy, cách tiếp cận tư duy hệ thống sẽ cung cấp bức tranh chính xác hơn về thực tế, để từ đó có thể tìm ra các giải pháp phù hợp.

Để chuyển đổi thành công sang nền kinh tế xanh, vai trò quan trọng thuộc về Nhà nước. Cụ thể:

Một là, Nhà nước thiết lập những khuôn khổ pháp lý phù hợp nhằm định hướng phát triển kinh tế theo hướng tăng trưởng xanh. Nhà nước bằng việc ban hành thể chế, cơ chế, chính sách phù hợp sẽ đóng vai trò tạo môi trường khuyến khích xanh hóa nền kinh tế. Khuôn khổ pháp lý được thiết kế phù hợp có thể xác định quyền và tạo động lực định hướng hoạt động kinh tế xanh, cũng như loại bỏ rào cản đối với các khoản đầu tư xanh và điều tiết những hành vi thiếu bền vững có hại tới môi trường, bằng cách tạo ra các tiêu chuẩn tối thiểu hoặc ngăn cấm hoàn toàn một số hoạt động. Hơn nữa, khuôn khổ pháp lý đầy đủ giúp giảm thiểu nguy cơ rủi ro trong kinh doanh, cũng như tăng độ tin cậy của nhà đầu tư vào thị trường. Hoạt động của doanh nghiệp sẽ thuận lợi hơn khi những tiêu chuẩn (nhất là những tiêu chuẩn liên quan đến bảo vệ môi trường) rõ ràng và được thực thi hiệu quả, vì khi đó, các doanh nghiệp sẽ có chung một mặt bằng cạnh tranh, tránh được tình trạng cạnh tranh không lành mạnh từ những doanh nghiệp không tuân thủ. Cùng với việc hoàn thiện thể chế, cần ban hành hệ thống các văn bản quy phạm kinh tế - kỹ thuật theo hướng thân thiện với môi trường cho từng ngành, từng lĩnh vực của nền kinh tế. Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu thống nhất về tài nguyên, môi trường và biến đổi khí hậu theo những tiêu chuẩn quốc tế, đồng thời có cơ chế phù hợp để khai thác, chia sẻ thông tin, sử dụng có hiệu quả cơ sở dữ liệu. Đây là những định hướng cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, người dân.

Hai là, đầu tư và chi tiêu của Nhà nước trong những lĩnh vực kích thích xanh hóa nền kinh tế. Đó là các khoản đầu tư để thúc đẩy phát triển, sử dụng năng lượng mới, năng lượng tái tạo, các nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu mới thay thế các nguồn tài nguyên truyền thống. Đầu tư cho việc chuyển đổi cơ cấu sử dụng năng lượng của nền kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng sử dụng năng lượng mới, năng lượng tái tạo trong tổng yêu cầu sử dụng năng lượng của quốc gia. Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển năng lượng mới, năng lượng tái tạo. Phát triển sản xuất các loại nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu mới để thay thế các loại tài nguyên truyền thống. 

Những khoản trợ cấp xanh như biện pháp hỗ trợ giá, ưu đãi thuế, trợ cấp trực tiếp và hỗ trợ vay vốn có thể là đòn bẩy mạnh mẽ để chuyển đổi sang nền kinh tế xanh. Bên cạnh những khoản trợ cấp xanh, cần hạn chế chi tiêu và trợ cấp trong những lĩnh vực làm cạn kiệt nguồn vốn tự nhiên. Nhiều quốc gia đã phải trả một chi phí đáng kể về kinh tế và môi trường vì các khoản trợ cấp không hợp lý. Bởi lẽ, nếu cố ý giảm giá hàng hóa thông qua trợ cấp sẽ khuyến khích sự tiêu dùng không hiệu quả, lãng phí, quá nhu cầu, từ đó dẫn đến khan hiếm các nguồn tài nguyên hữu hạn có giá trị hoặc làm suy thoái các tài nguyên tái tạo và suy thoái hệ sinh thái sớm hơn dự tính. 

Ba là, sử dụng thuế, các công cụ dựa vào thị trường để thay đổi ưu tiên của người tiêu dùng, thúc đẩy đầu tư xanh và cải tiến công nghệ. Thuế và các công cụ dựa vào thị trường là một phương thức hiệu quả nhằm kích thích đầu tư. Hiện tượng giá cả bị sai lệch làm nản lòng các nỗ lực đầu tư xanh hay không khuyến khích việc mở rộng quy mô đầu tư xanh. Trong một số lĩnh vực kinh tế, ví dụ ngành giao thông vận tải, các tác động ngoại biên tiêu cực như ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến sức khỏe hoặc giảm năng suất lao động, thường không được chú ý phản ánh trong chi phí, do đó, không khuyến khích việc chuyển đổi sang sử dụng hàng hóa và dịch vụ bền vững hơn. Vì vậy, cần tính toán đầy đủ cả các chi phí do tác động ngoại biên vào giá cả hàng hóa/dịch vụ thông qua công cụ thuế, phí hoặc sử dụng các công cụ thị trường khác.

Bốn là, đầu tư vào nâng cao năng lực của các cơ quan chức năng. Sự chuyển đổi sang nền kinh tế xanh đặt ra nhu cầu tăng cường năng lực của các cơ quan chức năng về các kỹ năng phân tích thách thức, xác định cơ hội và ưu tiên cho các hoạt động, huy động nguồn lực, thực hiện chính sách và đánh giá tiến độ. Để duy trì động lực của giai đoạn chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, Nhà nước cần đo lường được những tiến bộ đạt được. Điều này đòi hỏi phải xây dựng được bộ chỉ số, thu thập dữ liệu, phân tích và diễn giải kết quả để định hướng phát triển, hoàn thiện chính sách.

Những yêu cầu nêu trên đòi hỏi bộ máy nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức phải có năng lực, trình độ, đáp ứng yêu cầu hoạch định và ban hành chính sách; tổ chức thực hiện chính sách; thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm… Muốn vậy, đội ngũ cán bộ, công chức phải thường xuyên được đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, tiếp thu kinh nghiệm quốc tế.

Năm là, hợp tác quốc tế trong thúc đẩy phát triển kinh tế xanh. Các thỏa thuận môi trường quốc tế tạo điều kiện và kích thích quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế xanh. Ví dụ, các thỏa thuận đa phương về môi trường (Multilateral environmental agreements - MEAs) đã thiết lập các khuôn khổ pháp luật và thể chế để giải quyết những thách thức môi trường toàn cầu, giữ vai trò quan trọng thúc đẩy hoạt động kinh tế xanh. Ví dụ, Nghị định thư Montreal về các chất làm suy giảm tầng ô-zôn được công nhận rộng rãi là một trong những thỏa thuận đa phương về môi trường thành công nhất. Công ước chung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC) đã kích thích một lĩnh vực kinh tế tăng trưởng như công nghệ sản xuất năng lượng tái tạo và sử dụng năng lượng hiệu quả để giải quyết vấn đề phát thải khí thải nhà kính. 

Sáu là, bảo đảm tài chính cho quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế xanh. Quy mô tài chính cần thiết cho quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế xanh là rất lớn, có thể huy động vốn bằng chính sách tài chính công thông minh và cơ chế tài chính sáng tạo. Tốc độ tăng trưởng của thị trường vốn, các định hướng phát triển xanh của thị trường này, sự phát triển của các công cụ thị trường mới nổi như tài chính các-bon, tài chính vi mô và các quỹ kích thích xanh ứng phó với suy thoái kinh tế những năm gần đây đang mở ra không gian cho nguồn tài chính phục vụ cho chuyển đổi nền sang nền kinh tế xanh ở quy mô toàn cầu. Nhưng những nguồn vốn này vẫn còn khiêm tốn so với tổng khối lượng yêu cầu nên cần được tiếp tục phát triển, nhân rộng. 

3. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và xu thế hội nhập mạnh mẽ hiện nay, để thúc đẩy tiến độ chuyển dịch sang nền kinh tế xanh, cần thực hiện tốt một số giải pháp sau:

Thứ nhất, cần có biện pháp tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức trong các ngành, các cấp, các tầng lớp nhân dân về tăng trưởng xanh trong xu thế hội nhập hiện nay; đồng thời có chiến lược rõ ràng về vị thế của kinh tế Việt Nam trong nền kinh tế xanh toàn cầu với những tiềm năng, lợi thế và cả những thách thức nhất định của nước ta. Định hướng chiến lược về mô hình kinh tế xanh phải được thể chế hóa rõ nét trong cơ chế, chính sách, làm căn cứ để thu hút, khuyến khích đầu tư cả của các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài. 

Thứ hai, cần xem xét mô hình phát triển và rà soát cơ cấu ngành nghề của nền kinh tế, những ngành nghề phù hợp với nền kinh tế xanh trong điều kiện phát triển của Việt Nam cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện, kể cả học tập cách thức tiến hành của các quốc gia đã thực hiện hiệu quả để từ đó có bước đi và cách tiến hành phù hợp. Hạn chế, tiến tới thu hẹp những ngành nghề, lĩnh vực kinh tế thâm dụng nhiều tài nguyên, phát thải nhiều chất độc hại, gây ô nhiễm môi trường. Cùng với cơ cấu ngành nghề của nền kinh tế, cũng cần rà soát cơ cấu tiêu dùng của doanh nghiệp và người dân, đặc biệt là trong lĩnh vực giao thông vận tải, nơi tiêu thụ một lượng lớn năng lượng hóa thạch, phát thải nhiều khí độc hại gây ô nhiễm môi trường. Ở đây, bên cạnh siết chặt tiêu chuẩn khí thải trong cấp phép các phương tiện tham gia giao thông, Nhà nước cần khuyến khích, hỗ trợ việc sử dụng các loại năng lượng thay thế như điện, xăng sinh học, giảm lượng khí thải độc hại phát tán ra môi trường.

Bên cạnh việc rà soát cơ cấu ngành nghề, cơ cấu tiêu dùng của nền kinh tế, cần từng bước thay đổi quy trình, phương thức sản xuất truyền thống, nhất là trong nông nghiệp. Triển khai các mô hình nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ, hạn chế sử dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật gây ô nhiễm môi trường. Đây cũng là yêu cầu đặt ra đối với nông nghiệp trong quá trình cạnh tranh, hội nhập quốc tế. 

Thứ ba, tranh thủ sự hỗ trợ về tài chính cũng như kỹ thuật, công nghệ, kinh nghiệm quản lý từ cộng đồng quốc tế cho các khu vực kinh tế xanh. Chú trọng khai thác các chương trình, dự án hỗ trợ của các tổ chức quốc tế của Liên hợp quốc và nguồn vốn ODA của các nước phát triển cho lĩnh vực này. Tiếp tục mở rộng, phát triển các ý tưởng và tham gia tích cực vào hoạt động của các tổ chức, phong trào quốc tế về bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu, xây dựng nền kinh tế xanh. Kinh nghiệm thành công sau nhiều năm hưởng ứng và triển khai chiến dịch Giờ Trái đất có thể rất có ý nghĩa khi tiến hành các chiến dịch và hoạt động khác trong việc cổ xúy cho nền kinh tế xanh, thói quen sống hòa hợp với môi trường.

Thứ tư, có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ chuyên sâu về kinh tế xanh, tăng trưởng xanh, kể cả đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài đối với đội ngũ cán bộ trong bộ máy quản lý kinh tế về kinh tế xanh, tăng trưởng xanh. Chú trọng đào tạo đội ngũ doanh nhân, công nhân kỹ thuật về kinh tế xanh, tăng trưởng xanh, tiếp cận sớm những kiến thức xanh và công nghệ sạch của thế giới để triển khai áp dụng ở Việt Nam. Đối với người tiêu dùng, cần có các biện pháp truyền thông phù hợp để hình thành thói quen tiêu dùng xanh; lên án, tẩy chay các sản phẩm, dịch vụ không thân thiện với môi trường. Tiếng nói mạnh mẽ của người tiêu dùng sẽ là áp lực đáng kể đối với nhà sản xuất, buộc họ phải đổi mới quy trình sản xuất, công nghệ theo hướng xanh hóa, thân thiện với môi trường.

Thứ năm, định kỳ tiến hành rà soát cơ chế, chính sách để hoàn thiện khung khổ thể chế cho việc chuyển đổi sang nền kinh tế xanh. Áp dụng các chuẩn mực, yêu cầu kinh tế - kỹ thuật về môi trường tiên tiến trên thế giới theo lộ trình phù hợp với điều kiện Việt Nam. Tiến hành tổng kết mức độ đầu tư cho phát triển kinh tế xanh ở Việt Nam thời gian qua xem còn thiếu hụt những gì để tiếp tục bổ sung và hoàn thiện cho phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế như tính toán của Chương trình môi trường Liên hợp quốc.

Thứ sáu, phát huy vai trò của các hiệp hội doanh nhân, hiệp hội ngành nghề trong việc tuyên truyền, vận động các doanh nghiệp áp dụng công nghệ, quy trình sản xuất thân thiện với môi trường; trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm trong việc tiếp thu sáng kiến, công nghệ, kinh nghiệm quốc tế về sản xuất xanh. Khuyến khích doanh nghiệp kết hợp với các cơ sở nghiên cứu, đào tạo trong việc thúc đẩy nghiên cứu - chuyển giao; hình thành nguồn quỹ để trao giải, tôn vinh các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh tiêu biểu trong bảo vệ môi trường.

Thứ bảy, cùng với hoạt động thanh tra, kiểm tra của các cơ quan chức năng, cần vận động nhân dân tích cực giám sát các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất - kinh doanh trong việc tuân thủ pháp luật về tài nguyên, môi trường. Thông qua các tổ chức như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội, các cơ quan truyền thông, ý kiến phát hiện của người dân về những vi phạm phải được lắng nghe, các cơ quan chức năng vào cuộc giải quyết và cách thức xử lý phải được thông báo công khai, như là một hình thức báo cáo trước nhân dân. 

Có thể nói, kinh tế xanh, tăng trưởng xanh để phát triển bền vững, về thực chất là để bảo đảm bền vững về mặt sinh thái. Tác động của biến đổi khí hậu đã, đang và sẽ tác động lên các thành phần của hệ sinh thái và toàn hệ sinh thái nói chung. Ứng phó với biến đổi khí hậu về nguyên tắc là các giải pháp phục hồi, duy trì tính cân bằng của hệ sinh thái, tăng cường tính chống chịu - thích ứng của hệ sinh thái. Vì vậy, phát triển kinh tế xanh là lựa chọn sống còn của nền kinh tế nước ta trong cả ngắn hạn và dài hạn, đặc biệt trong tiến trình hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay./.

------------------------------------------------------

Tài liệu tham khảo:

(1) Bộ Tài nguyên và Môi trường, Báo cáo môi trường quốc gia 2010: Tổng quan môi trường Việt Nam, Hà Nội, 2010.

(2) Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Kỷ yếu Hội nghị phát triển bền vững toàn quốc lần thứ ba, Hà Nội, tháng 01-2011.

(3) Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Chiến lược Quốc gia về Biến đổi khí hậu, Hà Nội, 12-2011.

(4) Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, thời kỳ 2011-2020 và tầm nhìn đến năm 2050, Hà Nội, 9-2012.

 

Nguyễn Đông

Nguồn tin: Tạp chí Cộng Sản