Thông cáo báo chí tình hình kinh tế - xã hội năm 2017

1. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2017 ước tính tăng 6,81% so với năm 2016, trong đó quý I tăng 5,15%; quý II tăng 6,28%; quý III tăng 7,46%; quý IV tăng 7,65%. Mức tăng trưởng năm nay vượt mục tiêu đề ra 6,7% và cao hơn mức tăng của các năm từ 2011-2016[1], khẳng định tính kịp thời và hiệu quả của các giải pháp được Chính phủ ban hành, chỉ đạo quyết liệt các cấp, các ngành, các địa phương cùng nỗ lực thực hiện. Trong mức tăng 6,81% của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản đã có sự phục hồi đáng kể với mức tăng 2,90% (cao hơn mức tăng 1,36% của năm 2016), đóng góp 0,44 điểm phần trăm vào mức tăng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 8,00%, đóng góp 2,77 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ tăng 7,44%, đóng góp 2,87 điểm phần trăm.
Trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, ngành thủy sản có mức tăng cao nhất với 5,54% do sản xuất thủy sản năm 2017 có nhiều khởi sắc so với năm 2016, đóng góp 0,17 điểm phần trăm vào mức tăng chung. Ngành lâm nghiệp tăng 5,14%, do chiếm tỷ trọng thấp nên chỉ đóng góp 0,03 điểm phần trăm. Ngành nông nghiệp tăng 2,07% (năm 2016 tăng 0,72%), đóng góp 0,24 điểm phần trăm, cho thấy dấu hiệu phục hồi của ngành nông nghiệp sau những ảnh hưởng nặng nề của thiên tai năm 2016, xu hướng chuyển đổi cơ cấu sản phẩm trong nội bộ ngành theo hướng đầu tư vào những sản phẩm có giá trị kinh tế cao đã mang lại hiệu quả.
Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp tăng 7,85%, cao hơn mức tăng 7,06% của năm 2016, đóng góp 2,23 điểm phần trăm vào mức tăng chung. Điểm sáng của khu vực này là ngành công nghiệp chế biến, chế tạo với mức tăng 14,40% (là mức tăng cao nhất trong 7 năm gần đây[2]), đóng góp đáng kể vào mức tăng trưởng chung với 2,33 điểm phần trăm. Ngành khai khoáng giảm 7,10%, làm giảm 0,54 điểm phần trăm của mức tăng chung, đây là mức giảm sâu nhất từ năm 2011 trở lại đây[3], chủ yếu do sản lượng dầu thô khai thác giảm hơn 1,6 triệu tấn so với năm trước; sản lượng khai thác than cũng chỉ đạt 38 triệu tấn, giảm hơn 180 nghìn tấn. Ngành xây dựng duy trì tăng trưởng khá với tốc độ 8,70%, đóng góp 0,54 điểm phần trăm vào mức tăng chung.
Trong khu vực dịch vụ, đóng góp của một số ngành có tỷ trọng lớn vào mức tăng trưởng chung như sau: Bán buôn và bán lẻ đạt mức tăng 8,36% so với năm trước, là ngành có đóng góp cao nhất vào mức tăng trưởng chung (0,79 điểm phần trăm); dịch vụ lưu trú và ăn uống có mức tăng trưởng khá cao 8,98% so với mức tăng 6,70% của năm 2016, đóng góp 0,33 điểm phần trăm; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 8,14% (mức tăng cao nhất trong 7 năm gần đây[4]), đóng góp 0,46 điểm phần trăm; hoạt động kinh doanh bất động sản tăng 4,07% (mức tăng cao nhất kể từ năm 2011[5]), đóng góp 0,21 điểm phần trăm.
Quy mô nền kinh tế năm 2017 theo giá hiện hành đạt 5.007,9 nghìn tỷ đồng; GDP bình quân đầu người ước tính đạt 53,5 triệu đồng, tương đương 2.385 USD, tăng 170 USD so với năm 2016. Về cơ cấu nền kinh tế năm nay, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 15,34%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 33,34%; khu vực dịch vụ chiếm 41,32%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 10,00% (Cơ cấu tương ứng của năm 2016 là: 16,32%; 32,72%; 40,92%; 10,04%).
Xét về góc độ sử dụng GDP năm 2017, tiêu dùng cuối cùng tăng 7,35% so với năm 2016, đóng góp 5,52 điểm phần trăm (trong đó tiêu dùng cuối cùng của hộ dân cư đóng góp 5,04 điểm phần trăm); tích lũy tài sản tăng 9,8%, đóng góp 3,30 điểm phần trăm; chênh lệch xuất, nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ ở tình trạng nhập siêu làm giảm 2,01 điểm phần trăm của mức tăng trưởng chung.
2. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
a. Nông nghiệp
Sản lượng lúa cả năm 2017 ước tính đạt 42,84 triệu tấn, giảm 318,3 nghìn tấn so với năm 2016[6] do cả diện tích và năng suất đều giảm so với năm trước. Diện tích lúa cả năm 2017 ước tính đạt 7,72 triệu ha, giảm 26,1 nghìn ha so với năm 2016; năng suất lúa cả năm đạt 55,5 tạ/ha, giảm 0,2 tạ/ha.
Trong sản xuất lúa, vụ đông xuân năm nay cả nước gieo cấy được 3,08 triệu ha, giảm 5,7 nghìn ha so với vụ đông xuân trước; năng suất đạt 62,2 tạ/ha, giảm 0,7 tạ/ha; sản lượng đạt 19,15 triệu tấn, giảm 259 nghìn tấn.
Diện tích gieo cấy lúa hè thu năm 2017 đạt 2,11 triệu ha, tương đương vụ hè thu năm 2016; năng suất đạt 54,5 tạ/ha, tăng 1,2%; sản lượng đạt 11,49 triệu tấn, tăng 1,3%.
Diện tích lúa thu đông tại Đồng bằng sông Cửu Long năm nay ước tính đạt 769,4 nghìn ha, giảm 3,3 nghìn ha so với năm 2016; năng suất ước tính đạt 52,2 tạ/ha, tăng 1,8 tạ/ha; sản lượng đạt 4,02 triệu tấn, tăng 124,2 nghìn tấn.
Diện tích gieo cấy lúa mùa của cả nước đạt 1,76 triệu ha, giảm 17,5 nghìn ha so với vụ mùa năm trước; năng suất ước tính đạt 46,4 tạ/ha, giảm 1,4 tạ/ha; sản lượng ước tính đạt 8,18 triệu tấn, giảm 327,3 nghìn tấn.
Kết quả sản xuất hoa màu và một số cây hàng năm: Sản lượng ngô đạt 5,13 triệu tấn, giảm 114,6 nghìn tấn so với năm 2016 do diện tích gieo trồng giảm 52,9 nghìn ha (năng suất ngô tăng 1,1 tạ/ha). Sản lượng khoai lang đạt 1,35 triệu tấn, tăng 81,9 nghìn tấn (diện tích tăng 1,6 nghìn ha); mía đạt 18,32 triệu tấn, tăng 1,11 triệu tấn (diện tích tăng 12,8 nghìn ha); sản lượng sắn đạt 10,34 triệu tấn, giảm 569,1 nghìn tấn (diện tích giảm 34,4 nghìn ha); lạc đạt 461,5 nghìn tấn, giảm 2,1 nghìn tấn (diện tích giảm 4,1 nghìn ha); đậu tương đạt 102,3 nghìn tấn, giảm 22 nghìn tấn (diện tích giảm 16,1 nghìn ha); sản lượng rau các loại đạt 16,49 triệu tấn, tăng 562,8 nghìn tấn (diện tích tăng 29,5 nghìn ha); sản lượng đậu các loại đạt 162,3 nghìn tấn, giảm 5,3 nghìn tấn (diện tích giảm 10 nghìn ha).
Năm 2017, diện tích trồng cây công nghiệp lâu năm ước tính đạt 2.215,1 nghìn ha, tăng 35,2 nghìn ha so với năm 2016, trong đó cao su diện tích đạt 971,6 nghìn ha, giảm 0,2% so với năm trước, sản lượng cả vụ đạt 1.086,7 nghìn tấn, tăng 5%; hồ tiêu diện tích đạt 152 nghìn ha, tăng 17,6%, sản lượng đạt 241,5 nghìn tấn, tăng 11,6%; cà phê diện tích đạt 664,6 nghìn ha, tăng 2,2%, sản lượng đạt 1.529,7 nghìn tấn, tăng 4,7%; điều diện tích đạt 297,5 nghìn ha, tăng 1,5%, sản lượng đạt 210,9 nghìn tấn, giảm 30,9%; chè diện tích đạt 129,3 nghìn ha, giảm 3,1%, sản lượng chè búp đạt 1.040,8 nghìn tấn, tăng 0,7%.
Sản lượng cây ăn quả năm nay đạt khá do nhiều cây trồng tăng về diện tích và có thị trường tiêu thụ sản phẩm ổn định. Sản lượng cam đạt 772,6 nghìn tấn, tăng 20,4% so với năm trước; quýt đạt 175,5 nghìn tấn, tăng 6,3%; bưởi đạt 571,3 nghìn tấn, tăng 13,4%; xoài đạt 788,2 nghìn tấn, tăng 8,3%; chuối đạt 2.066,2 nghìn tấn, tăng 5,2%; thanh long đạt 952,8 nghìn tấn, tăng 14,2%. Riêng sản lượng nhãn, vải đạt thấp do nhiều cây trồng không mang lại hiệu quả bị chặt bỏ ở miền Bắc và chịu ảnh hưởng của sâu bệnh tại các tỉnh phía Nam[7].
Chăn nuôi trâu, bò nhìn chung ổn định, nuôi gia cầm đạt khá, riêng chăn nuôi lợn còn gặp khó khăn do thị trường tiêu thụ chưa có nhiều chuyển biến, giá thịt lợn ở mức thấp khiến quy mô đàn giảm. Theo kết quả điều tra chăn nuôi, tại thời điểm 01/10/2017, đàn trâu cả nước có 2,5 triệu con, giảm 1,1% so với cùng thời điểm năm trước; đàn bò có 5,7 triệu con, tăng 2,9%, đàn lợn có 27,4 triệu con, giảm 5,7%; đàn gia cầm có 385,5 triệu con, tăng 6,6%. Sản lượng thịt trâu đạt 87,9 nghìn tấn, tăng 1,5% so với năm trước; sản lượng thịt bò đạt 321,7 nghìn tấn, tăng 4,2%; sản lượng thịt lợn đạt 3,7 triệu tấn, tăng 1,9%; sản lượng thịt gia cầm đạt 1 triệu tấn, tăng 7,3%. Sản lượng trứng gia cầm đạt khá, ước tính năm 2017 đạt 10.637,1 triệu quả, tăng 12,6%.
b. Lâm nghiệp
Năm 2017, diện tích rừng trồng tập trung của cả nước ước tính đạt 241,3 nghìn ha, tăng 1,2% so với năm 2016, trong đó diện tích rừng sản xuất ước tính đạt 228 nghìn ha, tăng 1,3%; rừng phòng hộ, đặc dụng đạt 12,7 nghìn ha, giảm 1,5%; số cây lâm nghiệp trồng phân tán cả năm đạt 99,8 triệu cây, tăng 0,6%; sản lượng gỗ khai thác ước tính đạt 11,5 triệu m3, tăng 12,4%; sản lượng củi khai thác đạt 26,3 triệu ste, tăng 0,4%.
Năm 2017 cháy rừng giảm mạnh so với năm trước. Diện tích rừng bị thiệt hại của cả nước là 1.515,6 ha, giảm 55,9% so với năm 2016, trong đó diện tích rừng bị cháy là 471,7 ha, giảm 80%; diện tích rừng bị chặt phá là 1.043,9 ha, giảm 2,9%.
c. Thủy sản
Sản xuất thủy sản năm 2017 có nhiều khởi sắc. Sản lượng thuỷ sản cả năm ước tính đạt 7.225,0 nghìn tấn, tăng 5,2% so với năm trước, trong đó cá đạt 5.192,4 nghìn tấn, tăng 4,8%; tôm đạt 887,5 nghìn tấn, tăng 8,8%.
Sản lượng thủy sản nuôi trồng cả năm ước tính đạt 3.835,7 nghìn tấn, tăng 5,2% so với năm 2016, trong đó cá đạt 2.694,3 nghìn tấn, tăng 4,2%; tôm đạt 723,8 nghìn tấn, tăng 10,3%. Sản lượng cá tra năm 2017 ước tính đạt 1.251,3 nghìn tấn, tăng 5,0%; sản lượng tôm sú đạt 254,9 nghìn tấn, tăng 4,4%; sản lượng tôm thẻ chân trắng đạt 432,3 nghìn tấn, tăng 14,3%.
Sản lượng thủy sản khai thác của cả nước năm 2017 ước tính đạt 3.389,3 nghìn tấn, tăng 5,1% so với năm 2016, trong đó cá đạt 2.498,1 nghìn tấn, tăng 5,4%, tôm đạt 163,7 nghìn tấn, tăng 2,6%. Sản lượng thủy sản khai thác biển ước tính đạt 3.191,2 nghìn tấn, tăng 5,1%, trong đó cá đạt 2.363,8 nghìn tấn, tăng 5,4%, tôm đạt 150,2 nghìn tấn, tăng 2,8%.
3. Sản xuất công nghiệp
Sản xuất công nghiệp tiếp tục tăng cao trong tháng cuối năm. Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng Mười Hai ước tính tăng 11,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành khai khoáng giảm 10%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 17,8%; sản xuất và phân phối điện tăng 9%; cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 15,7%. Tính chung cả năm 2017, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 9,4% so với năm 2016 (quý I tăng 4%; quý II tăng 8,2%; quý III tăng 9,7%; quý IV ước tính tăng 14,4%), cao hơn nhiều so với mức tăng 7,4% của năm 2016. Trong các ngành công nghiệp, ngành chế biến, chế tạo tăng 14,5% (mức tăng trưởng cao nhất trong 6 năm trở lại đây[8]), đóng góp lớn nhất vào tăng trưởng chung toàn ngành công nghiệp với 10,2 điểm phần trăm; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 9,4%, đóng góp 0,6 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 8,7%, đóng góp 0,1 điểm phần trăm; ngành khai khoáng giảm sâu 7,1%, làm giảm 1,5 điểm phần trăm mức tăng chung.
Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo 11 tháng tăng 13,6% so với cùng kỳ năm 2016 (cùng kỳ năm trước tăng 8,4%). Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại thời điểm 1/12/2017 tăng 8% so với cùng thời điểm năm trước, là mức tồn kho thấp nhất trong nhiều năm qua[9]. Tỷ lệ tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo bình quân 11 tháng năm 2017 là 65,9% (cùng kỳ năm trước là 66,1%).
4. Hoạt động của doanh nghiệp
a. Tình hình đăng ký doanh nghiệp[10]
Trong năm 2017, cả nước có 126.859 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng vốn đăng ký là 1.295,9 nghìn tỷ đồng, tăng 15,2% về số doanh nghiệp và tăng 45,4% về số vốn đăng ký so với năm 2016; vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới đạt 10,2 tỷ đồng, tăng 26,2%[11]. Nếu tính cả 1.869,3 nghìn tỷ đồng của hơn 35,2 nghìn lượt doanh nghiệp thay đổi tăng vốn thì tổng số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế trong năm 2017 là 3.165,2 nghìn tỷ đồng. Bên cạnh đó, còn có 26.448 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, giảm 0,9% so với năm trước, nâng tổng số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong năm lên 153,3 nghìn doanh nghiệp. Tổng số lao động đăng ký của các doanh nghiệp thành lập mới trong năm 2017 là 1.161,3 nghìn người, giảm 8,4% so với năm 2016.
Số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động trong năm 2017 là 60.553 doanh nghiệp, giảm 0,2% so với năm trước, bao gồm 21.684 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, tăng 8,9% và 38.869 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động không đăng ký hoặc chờ giải thể, giảm 4,6%. Số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể trong năm 2017 là 12.113 doanh nghiệp, giảm 2,9% so với năm trước, trong đó 11.087 doanh nghiệp có quy mô vốn dưới 10 tỷ đồng, chiếm 91,5%.
b. Xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp
Kết quả điều tra về xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý IV/2017 cho thấy: Có 44,8% số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh quý IV năm nay tốt hơn quý III; 18,7% số doanh nghiệp đánh giá gặp khó khăn và 36,5% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh ổn định. Dự kiến quý I/2018 so với quý IV năm nay, có 48,2% số doanh nghiệp đánh giá xu hướng sẽ tốt lên; 16,1% số doanh nghiệp dự báo khó khăn hơn và 35,7% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh sẽ ổn định.
5. Hoạt động dịch vụ
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2017 ước tính đạt 3.934,2 nghìn tỷ đồng, tăng 10,9% so với năm trước (Năm 2016 tăng 10,1%), nếu loại trừ yếu tố giá tăng 9,46%, cao hơn mức tăng 8,33% của năm trước. Xét theo ngành hoạt động, doanh thu bán lẻ hàng hóa năm 2017 ước tính đạt 2.937,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 74,7% tổng mức và tăng 10,9% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống đạt 494,7 nghìn tỷ đồng, chiếm 12,6% tổng mức và tăng 11,9%; doanh thu du lịch lữ hành đạt 35,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 0,9% tổng mức và tăng 10,4%; doanh thu dịch vụ khác đạt 466,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 11,8% tổng mức và tăng 9,7%.
Vận tải hành khách năm 2017 đạt 4.081,6 triệu lượt khách, tăng 11,1% so với năm trước và 182,8 tỷ lượt khách.km, tăng 9,1%. Vận tải hàng hóa năm 2017 đạt 1.442,9 triệu tấn, tăng 9,8% so với năm trước và268,9 tỷ tấn.km, tăng 6,8%.
Doanh thu lĩnh vực viễn thông năm 2017 ước tính đạt 380 nghìn tỷ đồng, tăng 7,3% so với năm 2016.Tính đến cuối năm 2017, tổng số thuê bao điện thoại ước tính đạt 127,4 triệu thuê bao, giảm 2,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó số thuê bao di động đạt 119,7 triệu thuê bao, giảm 1,3%; số thuê bao Internet băng rộng cố định ước tính đạt 10,8 triệu thuê bao, tăng 18,7%.
Khách quốc tế đến nước ta trong năm ước tính đạt 12,9 triệu lượt người, tăng 29,1% so với năm trước(tăng 2,9 triệu lượt khách), trong đó khách đến bằng đường hàng không đạt 10,9 triệu lượt người, tăng 32,1%; đến bằng đường bộ đạt 1,8 triệu lượt người, tăng 19,5%; đến bằng đường biển đạt 258,8 nghìn lượt người, giảm 9,1%. Trong năm nay, khách đến nước ta từ châu Á đạt 9.762,7 nghìn lượt người, tăng 34,4% so với năm trước (riêng khách đến từ Trung Quốc đạt 4.008,3 nghìn lượt người[12], tăng 48,6%);khách đến từ châu Âu ước tính đạt 1.885,7 nghìn lượt người, tăng 16,6%; khách đến từ châu Mỹ đạt 817nghìn lượt người, tăng 11,1%; khách đến từ châu Úc đạt 420,9 nghìn lượt người, tăng 14,3%; khách đến từ châu Phi đạt 35,9 nghìn lượt người, tăng 25,6%.
6. Hoạt động ngân hàng, bảo hiểm
Tính đến thời điểm 20/12/2017, tổng phương tiện thanh toán tăng 14,19% so với cuối năm 2016 (cùng kỳ năm trước tăng 16,47%); huy động vốn của các tổ chức tín dụng tăng 14,5% (cùng kỳ năm 2016 tăng 16,88%); tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế đạt 16,96%.
Lãi suất huy động trong năm tương đối ổn định. Lãi suất huy động bằng đồng Việt Nam phổ biến ở mức 0,8%-1%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và kỳ hạn dưới 1 tháng; 4,3%-5,4%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng; 5,3%-6,5%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng đến dưới 12 tháng; kỳ hạn trên 12 tháng ở mức 6,5%-7,3%/năm. Mặt bằng lãi suất cho vay phổ biến của các lĩnh vực ưu tiên ở mức 6%-6,5%/năm đối với ngắn hạn, 9%-10%/năm đối với trung và dài hạn. Lãi suất cho vay các lĩnh vực sản xuất kinh doanh thông thường ở mức 6,8%-9%/năm đối với ngắn hạn; 9,3%-11%/năm đối với trung và dài hạn.
Năm 2017, doanh thu phí bảo hiểm toàn thị trường ước tính đạt 105,6 nghìn tỷ đồng, tăng 21,2% so với năm trước, trong đó doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ đạt 65 nghìn tỷ đồng, tăng 28,9%; doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ đạt 40,6 nghìn tỷ đồng, tăng 10,6%. Tổng tài sản của các doanh nghiệp bảo hiểm ước tính đạt 302,9 nghìn tỷ đồng, tăng 23,4% so với năm 2016; các doanh nghiệp bảo hiểm đầu tư trở lại nền kinh tế khoảng 247,8 nghìn tỷ đồng, tăng 26,74%. Tổng số tiền các doanh nghiệp bảo hiểm chi trả quyền lợi bảo hiểm năm 2017 đạt 29,4 nghìn tỷ đồng, tăng 14,9% so với năm 2016.
7. Đầu tư
Tổng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2017 theo giá hiện hành ước tính đạt 1.667,4 nghìn tỷ đồng, tăng 12,1% so với năm 2016 và bằng 33,3% GDP, bao gồm: Vốn khu vực Nhà nước đạt 594,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 35,7% tổng vốn và tăng 6,7% so với năm trước; khu vực ngoài Nhà nước đạt 676,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 40,5% và tăng 16,8%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 396,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 23,8% và tăng 12,8%.
Tổng vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước thực hiện năm 2017 ước tính đạt 290,5 nghìn tỷ đồng, bằng 94,4% kế hoạch năm và tăng 7,2% so với năm 2016, gồm có: Vốn trung ương quản lý đạt 64,4 nghìn tỷ đồng, bằng 91,1% và tăng 3,9%. Vốn địa phương quản lý đạt 226,1 nghìn tỷ đồng, bằng 95,4% và tăng 8,2%.
Đầu tư trực tiếp của nước ngoài từ đầu năm đến thời điểm 20/12/2017 thu hút 2.591 dự án cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt 21,3 tỷ USD, tăng 3,5% về số dự án và tăng 42,3% về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2016. Bên cạnh đó, có 1.188 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư với số vốn tăng thêm đạt 8,4 tỷ USD, tăng 49,2% so với cùng kỳ năm trước, nâng tổng số vốn đăng ký cấp mới và vốn tăng thêm trong năm 2017 lên 29,7 tỷ USD, tăng 44,2%. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện năm 2017 ước tính đạt 17,5 tỷ USD, tăng 10,8% so với năm 2016. Trong năm 2017 còn có 5.002 lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài với tổng giá trị góp vốn là 6,2 tỷ USD, tăng 45,1% so với năm 2016.
8. Thu, chi ngân sách Nhà nước
Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/12/2017 ước tính đạt 1.104 nghìn tỷ đồng, bằng 91,1% dự toán năm, trong đó thu nội địa đạt 871,1 nghìn tỷ đồng, bằng 88%; thu từ dầu thô đạt 43,5 nghìn tỷ đồng, bằng 113,7%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu đạt 183,8 nghìn tỷ đồng, bằng 102,1%.
Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/12/2017 ước tính đạt 1.219,5 nghìn tỷ đồng, bằng 87,7% dự toán năm, trong đó chi thường xuyên đạt 862,6 nghìn tỷ đồng, bằng 96,2%; chi trả nợ lãi91 nghìn tỷ đồng, bằng 92%; riêng chi đầu tư phát triển đạt 259,5 nghìn tỷ đồng, bằng 72,6% dự toán năm (trong đó chi đầu tư xây dựng cơ bản đạt 254,5 nghìn tỷ đồng, bằng 72,3%). Chi trả nợ gốc từ đầu năm đến thời điểm 15/12/2017 ước tính đạt 147,6 nghìn tỷ đồng, bằng 90,1% dự toán năm.
9. Xuất, nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ
a. Xuất, nhập khẩu hàng hóa
Kim ngạch hàng hóa xuất năm 2017 ước tính đạt 213,77 tỷ USD, tăng 21,1% so với năm trước, đây là mức tăng cao nhất trong nhiều năm qua13, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 58,53 tỷ USD, tăng 16,2%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 155,24 tỷ USD, tăng 23%. Nếu loại trừ yếu tố giá, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu năm 2017 tăng 17,6% so với năm 2016.
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu năm 2017 ước tính đạt 211,1 tỷ USD, tăng 20,8% so với năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 84,7 tỷ USD, tăng 17%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 126,4 tỷ USD, tăng 23,4%. Nếu loại trừ yếu tố giá, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu năm 2017 tăng 17,7% so với năm 2016.
Cán cân thương mại hàng hóa tính chung cả năm 2017 xuất siêu 2,7 tỷ USD, trong đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 26,1 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài xuất siêu 28,8 tỷ USD. Năm 2017 cũng ghi nhận một kỷ lục mới của xuất nhập khẩu Việt Nam khi tổng mức lưu chuyển hàng hóa xuất, nhập khẩu vượt mốc 400 tỷ USD.
b. Xuất, nhập khẩu dịch vụ
Kim ngạch xuất khẩu dịch vụ năm 2017 ước tính đạt 13,1 tỷ USD, tăng 7% so với năm 2016, trong đó xuất khẩu dịch vụ du lịch đạt 8,9 tỷ USD, chiếm 67,6% tổng kim ngạch xuất khẩu và tăng 7,4%; dịch vụ vận tải 2,6 tỷ USD, chiếm 19,7% và tăng 5,7%. Kim ngạch nhập khẩu dịch vụ năm 2017 ước tính đạt 17 tỷ USD, tăng 1,6% so với năm trước, trong đó nhập khẩu dịch vụ vận tải đạt 8,2 tỷ USD, chiếm 47,9% tổng kim ngạch nhập khẩu và giảm 2,8%; dịch vụ du lịch đạt 5,1 tỷ USD, chiếm 29,8% và tăng 12,7%. Nhập siêu dịch vụ năm 2017 là 3,9 tỷ USD, bằng 29,9% kim ngạch xuất khẩu dịch vụ.
10. Chỉ số giá
a. Chỉ số giá tiêu dùng
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 12/2017 tăng 0,21% so với tháng trước, trong đó nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng cao nhất với 2,55% (dịch vụ y tế tăng 3,30%) do trong tháng có 15 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương điều chỉnh tăng giá dịch vụ y tế (tác động làm CPI chung tăng khoảng 0,13%). Nhóm giao thông tăng 0,84%; may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,43% do nhu cầu mua sắm hàng mùa đông tăng lên; đồ uống và thuốc lá tăng 0,17%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,22% do giá gas, giá dầu hỏa và giá điện, nước sinh hoạt được điều chỉnh tăng, cùng với nhu cầu sửa chữa nhà ở tăng cao trong những tháng cuối năm. Nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,17%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,12%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,03%. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá giảm: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,23%, trong đó lương thực tăng 0,56%, thực phẩm giảm 0,5%; bưu chính viễn thông giảm 0,03%. Riêng nhóm giáo dục giá không đổi so với tháng trước.
CPI bình quân năm 2017 tăng 3,53% so với bình quân năm 2016, dưới mục tiêu Quốc hội đề ra. CPI tháng 12/2017 tăng 2,6% so với tháng 12/2016, bình quân mỗi tháng tăng 0,21%.
Lạm phát cơ bản tháng 12/2017 tăng 0,11% so với tháng trước và tăng 1,29% so với cùng kỳ năm trước. Lạm phát cơ bản bình quân năm 2017 tăng 1,41% so với bình quân năm 2016.
b. Chỉ số giá vàng và đô la Mỹ
Giá vàng trong nước biến động theo giá vàng thế giới. Chỉ số giá vàng tháng 12/2017 giảm 0,12% so với tháng trước; tăng 4,74% so với cùng kỳ năm 2016; bình quân năm 2017 tăng 3,71% so với năm 2016. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 12/2017 tăng 0,02% so với tháng trước và giảm 0,05% so với cùng kỳ năm 2016; bình quân năm 2017 tăng 1,40% so với năm 2016.
c. Chỉ số giá sản xuất và chỉ số giá xuất, nhập khẩu hàng hóa
Chỉ số giá sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2017 tăng 0,24% so với năm trước; chỉ số giá sản xuất công nghiệp tăng 2,82%; chỉ số giá nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu dùng cho sản xuất tăng 1,14%; chỉ số giá cước vận tải, kho bãi tăng 2,15%. Chỉ số giá sản xuất dịch vụ tăng 3,63% so với năm trước.
Chỉ số giá xuất khẩu hàng hóa năm 2017 tăng 2,93% so với năm trước; chỉ số giá nhập khẩu tăng 2,57%. Tỷ giá thương mại hàng hóa15 năm nay tăng 0,35% so với năm trước.
11. Dân số, lao động và việc làm
Dân số trung bình năm 2017 của cả nước ước tính 93,7 triệu người, tăng 987,3 nghìn người, tương đương tăng 1,07% so với năm 2016, bao gồm dân số thành thị 32,9 triệu người, chiếm 35,1%; dân số nông thôn 60,8 triệu người, chiếm 64,9%; dân số nam 46,2 triệu người, chiếm 49,3%; dân số nữ 47,5 triệu người, chiếm 50,7%.
Năm 2017, tổng tỷ suất sinh ước tính đạt 2,04 con/phụ nữ (ở dưới mức sinh thay thế). Tỷ số giới tính của trẻ em mới sinh là 112,4 bé trai/100 bé gái; tỷ suất sinh thô là 14,71‰; tỷ suất chết thô là 6,84‰. Tỷ suất chết của trẻ em dưới 1 tuổi (số trẻ em dưới 1 tuổi tử vong/1.000 trẻ sinh ra sống) là 14,35‰. Tỷ suất chết của trẻ em dưới 5 tuổi (số trẻ em dưới 5 tuổi tử vong/1.000 trẻ sinh ra sống) là 21,55‰. Tuổi thọ trung bình của dân số cả nước năm 2017 là 73,5 năm, trong đó nam là 70,9 năm và nữ là 76,2 năm.
Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của cả nước năm 2017 ước tính là 54,8 triệu người, tăng 394,9nghìn người so với năm 2016, bao gồm: Lao động nam chiếm 51,9%; lao động nữ chiếm 48,1%; lao động khu vực thành thị chiếm 32,2%; khu vực nông thôn chiếm 67,8%.
Lực lượng lao động trong độ tuổi lao động của cả nước năm 2017 ước tính 48,2 triệu người, tăng 511nghìn người so với năm trước, trong đó lao động nam chiếm 54,1%; lao động nữ chiếm 45,9%. Lực lượng lao động trong độ tuổi lao động khu vực thành thị chiếm 33,4%; khu vực nông thôn chiếm 66,6%.
Lao động 15 tuổi trở lên đang làm việc trong các ngành kinh tế năm 2017 ước tính 53,7 triệu người, tăng 416,1 nghìn người so với năm 2016. Trong đó lao động đang làm việc trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 40,3%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 25,7%; khu vực dịch vụ chiếm 34,0%. Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc năm 2017 khu vực thành thị chiếm 31,9%; khu vực nông thôn chiếm 68,1%. Tỷ lệ lao động trong độ tuổi đã qua đào tạo năm 2017 ước tính đạt 21,5%, cao hơn mức 20,6% của năm trước.
Số người có việc làm trong quý I năm nay ước tính là 53,4 triệu người, tăng 74,7 nghìn người so với cùng kỳ năm trước; quý II là 53,4 triệu người, tăng 164,3 nghìn người; quý III là 53,8 triệu người, tăng 496,9 nghìn người; quý IV là 54,1 triệu người, tăng 671,8 nghìn người.
Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi năm 2017 là 2,24%, trong đó khu vực thành thị là 3,18%; khu vực nông thôn là 1,78%. Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên (Từ 15-24 tuổi) năm 2017 là 7,51%, trong đó khu vực thành thị là 11,75%; khu vực nông thôn là 5,87%. Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi lao động năm 2017 là 1,63%, trong đó khu vực thành thị là 0,85%; khu vực nông thôn là 2,07%. Tỷ lệ lao động có việc làm phi chính thức phi nông nghiệp16 năm 2017 ước tính là 57%, trong đó khu vực thành thị là 48,5%; khu vực nông thôn là 64,4%.
12. Năng suất lao động
Năng suất lao động toàn nền kinh tế theo giá hiện hành năm 2017 ước tính đạt 93,2 triệu đồng/lao động (tương đương khoảng 4.159 USD/lao động). Tính theo giá so sánh năm 2010, năng suất lao động toàn nền kinh tế năm 2017 tăng 6% so với năm 2016, bình quân giai đoạn 2011-2017 tăng 4,7%/năm.
Năng suất lao động của Việt Nam thời gian qua tuy có sự cải thiện đáng kể theo hướng tăng đều qua các năm17 và là quốc gia có tốc độ tăng NSLĐ cao trong khu vực ASEAN nhưng mức NSLĐ của Việt Nam hiện nay vẫn rất thấp so với nhiều nước trong khu vực. Tính theo sức mua tương đương năm 2011, năng suất lao động của Việt Nam năm 2016 đạt 9.894 USD, chỉ bằng 7,0% của Xin-ga-po; 17,6% của Ma-lai-xi-a; 36,5% của Thái Lan; 42,3% của In-đô-nê-xi-a; 56,7% của Phi-li-pin và bằng 87,4% NSLĐ của Lào. Đáng chú ý là chênh lệch về NSLĐ giữa Việt Nam với các nước vẫn tiếp tục gia tăng19.
13. Đời sống dân cư và bảo đảm an sinh xã hội
Năm 2017, cả nước có 181,4 nghìn lượt hộ thiếu đói, giảm 31,7% so với năm trước, tương ứng với 746,1 nghìn lượt nhân khẩu thiếu đói, giảm 32,1%. Để khắc phục tình trạng thiếu đói, từ đầu năm, các cấp, các ngành, các tổ chức từ Trung ương đến địa phương đã hỗ trợ các hộ thiếu đói 22,8 nghìn tấn lương thực và hơn 1,1 tỷ đồng. Theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-202020, tỷ lệ hộ nghèo năm 2017 ước tính 8%.
Theo báo cáo sơ bộ, tổng kinh phí dành cho hoạt động an sinh xã hội và giảm nghèo trong năm 2017 là 5.832 tỷ đồng, bao gồm 3.370 tỷ đồng quà thăm hỏi và hỗ trợ các đối tượng chính sách; 1.759 tỷ đồng hỗ trợ các hộ nghèo và 703 tỷ đồng cứu đói, cứu trợ xã hội khác. Bên cạnh đó, đã có gần 17 triệu thẻbảo hiểm y tế, sổ/thẻ khám chữa bệnh miễn phí được phát tặng cho các đối tượng chính sách trên địa bàn cả nước.
14. Giáo dục, đào tạo
Năm học 2017-2018, cả nước có gần 23 triệu học sinh, sinh viên; trong đó gần 5,2 triệu trẻ em bậc mầm non (0,7 triệu trẻ em đi nhà trẻ và 4,5 triệu trẻ em đi học mẫu giáo); 7,8 triệu học sinh tiểu học; 5,5 triệu học sinh trung học cơ sở; 2,4 triệu học sinh trung học phổ thông và 1,8 triệu sinh viên cao đẳng, đại học.
Hiện nay, cả nước có 1.974 cơ sở giáo dục nghề nghiệp, bao gồm 388 trường cao đẳng, 551 trường trung cấp và 1.035 trung tâm giáo dục thường xuyên. Đào tạo nghề tính đến cuối năm nay đã tuyển mới được 2.090 nghìn người, trong đó trình độ cao đẳng, trung cấp tuyển sinh được 540 nghìn người; trình độ sơ cấp và đào tạo dưới 3 tháng tuyển sinh được 1.550 nghìn người. Bên cạnh đó, trong năm 2017 đã có khoảng 600 nghìn lao động nông thôn và 19 nghìn người khuyết tật được hỗ trợ đào tạo nghề theo Đề án Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020.
15. Tình hình dịch bệnh, ngộ độc thực phẩm
 Năm 2017, cả nước có 175,8 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (38 trường hợp tử vong); gần 102,7 nghìn trường hợp mắc bệnh tay chân miệng; 630 trường hợp mắc bệnh thương hàn; 720 trường hợp mắc bệnh viêm não vi rút (26 trường hợp tử vong); 53 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do não mô cầu (3 trường hợp tử vong); 653 trường hợp mắc bệnh ho gà (5 trường hợp tử vong); 204 trường hợp nhiễm liên cầu lợn ở người (17 trường hợp tử vong); 327 trường hợp mắc viêm não Nhật Bản (16 trường hợp tử vong); 39 trường hợp nhiễm vi rút Zika; 19 trường hợp mắc bệnh bạch hầu (5 trường hợp tử vong); 62 trường hợp tử vong do bệnh dại. Cũng trong năm nay, trên địa bàn cả nước xảy ra 111 vụ ngộ độc thực phẩm, làm 3.374 người bị ngộ độc, trong đó 22 trường hợp tử vong.
Tính đến thời điểm 17/12/2017, tổng số người nhiễm HIV của cả nước hiện còn sống là 209,4 nghìn người và số trường hợp đã chuyển sang giai đoạn AIDS là 90,1 nghìn người; số người tử vong do HIV/AIDS của cả nước tính đến thời điểm trên là 94,6 nghìn người.
16. Hoạt động văn hóa và thể dục thể thao
Hoạt động văn hóa năm 2017 tập trung chào mừng các ngày Lễ lớn, các sự kiện trọng đại của đất nước với nhiều hình thức, bảo đảm thiết thực, hiệu quả và tiết kiệm, tạo không khí phấn khởi trong nhân dân. Tính đến thời điểm này, Việt Nam có 12 di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại được UNESCO công nhận (Trong năm, nghệ thuật Bài Chòi được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể nhân loại; hát Xoan Phú Thọ đã chính thức được UNESCO đưa ra khỏi Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp và ghi danh tại Danh sách di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại).
Hoạt động thể dục, thể thao quần chúng tiếp tục đẩy mạnh gắn với triển khai thực hiện cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại”. Trong thể thao thành tích cao, tính đến 30/11/2017, thể thao Việt Nam đã giành được 1.045 huy chương trong các giải đấu quốc tế, trong đó 425 huy chương vàng, 301 huy chương bạc, 319 huy chương đồng. Tại SEA Games 29, Đoàn Thể thao Việt Nam thi đấu xuất sắc giành 168 huy chương các loại (58 huy chương vàng, 50 huy chương bạc và 60 huy chương đồng), xếp thứ 3/11 quốc gia tham dự.
17. Tai nạn giao thông
Năm 2017, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 20.280 vụ tai nạn giao thông, bao gồm 9.770 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 10.310 vụ va chạm giao thông, làm 8.279 người chết; 5.587 người bị thương và 11.453 người bị thương nhẹ. So với năm trước, số vụ tai nạn giao thông năm nay giảm 7% (Số vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên giảm 5,6%; số vụ va chạm giao thông giảm 8,3%); số người chết giảm 4,7%; số người bị thương giảm 9,6% và số người bị thương nhẹ giảm 12,6%. Bình quân 1 ngày trong năm 2017, trên địa bàn cả nước xảy ra 55 vụ tai nạn giao thông, gồm 27 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 28 vụ va chạm giao thông, làm 23 người chết, 15 người bị thương và 32 người bị thương nhẹ.
18. Thiệt hại do thiên tai 
Năm 2017, thiên tai làm 389 người chết, mất tích và 668 người bị thương; 234 nghìn ha diện tích lúa và 130,6 nghìn ha diện tích hoa màu bị ngập, bị hư hỏng. Số nhà sập đổ, cuốn trôi là 8.312, gấp hơn 1,5 lần so với năm 2016 và 588,1 nghìn nhà sạt lở, tốc mái, ngập nước, gấp 1,6 lần. Tổng giá trị thiệt hại do thiên tai năm nay ước tính 60 nghìn tỷ đồng, gấp 1,5 lần so với năm 2016. Tính chung năm 2017, Chính phủ đã hỗ trợ hơn 14,6 nghìn tấn gạo cho các địa phương để khắc phục hậu quả thiên tai.
19. Bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ
Năm 2017 đã phát hiện 16.742 vụ vi phạm quy định về bảo đảm vệ sinh môi trường trên địa bàn cả nước, trong đó xử lý 13.943 vụ với tổng số tiền phạt hơn 211 tỷ đồng. Trong năm nay, trên địa bàn cả nước xảy ra 4.114 vụ cháy, nổ, làm 119 người chết và 270 người bị thương, thiệt hại ước tính khoảng 2 nghìn tỷ đồng./.
 
TỔNG CỤC THỐNG KÊ


[1] Mức tăng GDP so với năm trước của một số năm: Năm 2011 tăng 6,24%; năm 2012 tăng 5,25%; năm 2013 tăng 5,42%; năm 2014 tăng 5,98%; năm 2015 tăng 6,68%; năm 2016 tăng 6,21%; năm 2017 tăng 6,81%.
[2] Mức tăng so với năm trước của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo một số năm: Năm 2011 tăng 14,08%; năm 2012 tăng 9,05%; năm 2013 tăng 7,22%; năm 2014 tăng 7,41%; năm 2015 tăng 10,60%; năm 2016 tăng 11,90%; năm 2017 tăng 14,40%.
[3] Mức tăng/giảm so với năm trước của ngành khai khoáng một số năm: Năm 2011 tăng 2,90%; năm 2012 tăng 5,14%; năm 2013 giảm 0,23%; năm 2014 tăng 2,26%; năm 2015 tăng 6,50%; năm 2016 giảm 4,00%; năm 2017 giảm 7,10%.
[4] Mức tăng ngành hoạt động tài chính, ngân  hàng và bảo hiểm một số năm: Năm 2011 tăng 7,45%; năm 2012 tăng 5,58%; năm 2013 tăng 6,88%; năm 2014 tăng 5,83%; năm 2015 tăng 7,38%; năm 2016 tăng 7,79%; năm 2017 tăng 8,14%.
[5] Mức tăng ngành kinh doanh bất động sản  một số năm: Năm 2011 tăng 3,80%; năm 2012 tăng 1,32%; năm 2013 tăng 2,17%; năm 2014 tăng 2,80%; năm 2015 tăng 2,96%; năm 2016 tăng 4,00%; năm 2017 tăng 4,07%.
[6] Nếu tính cả 5,13 triệu tấn ngô thì tổng sản lượng lương thực có hạt năm 2017 ước tính đạt 47,97 triệu tấn, giảm  709,8 nghìn tấn so với năm 2016.
[7] Ước tính năm 2017, diện tích trồng nhãn tăng 2,9% so với năm 2016, sản lượng giảm 1,1%; diện tích trồng vải giảm 4,7%, sản lượng giảm 24,1%.
[8] Tốc độ tăng chỉ số sản xuất ngành công nghiệp chế biến, chế tạo các năm 2012-2017 lần lượt là: 5,5%; 7,6%; 8,7%; 10,5%; 11,3%; 14,5%.
[9] Cùng thời điểm năm 2013 tăng 10,2%; năm 2014 tăng 10%; năm 2015 tăng 9,5% và năm 2016 tăng 8,1%.
[10] Nguồn: Hệ thống thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia, Cục Quản lý đăng ký kinh doanh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
[11] Năm 2016, số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tăng 16,2% so với năm 2015; số vốn đăng ký tăng 48,1%; vốn đăng ký bình quân 1 doanh nghiệp tăng 27,5%.
[12] Khách Trung Quốc hiện nay chiếm tới 31% tổng số khách quốc tế đến Việt Nam nhưng chi tiêu bình quân và thời gian lưu trú bình quân của một lượt khách Trung Quốc thấp hơn các nước khác trong khu vực Châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Xin-ga-po...
13 Tốc độ tăng kim ngạch XK hàng hóa so với năm trước các năm 2013-2017 lần lượt là: 15,3%; 13,8%; 7,9%; 9%; 21,1%.
15 Chỉ số giá xuất khẩu hàng hóa so với chỉ số giá nhập khẩu hàng hóa.
16 Lao động có việc làm phi chính thức phi nông nghiệp bao gồm những người không làm việc trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản và thuộc một trong ba nhóm sau: (i) người làm công ăn lương thuộc khu vực chính thức không được ký hợp đồng lao động hoặc có hợp đồng có thời hạn nhưng không được cơ sở tuyển dụng đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc; lao động gia đình tại cơ sở thuộc khu vực chính thức và thành viên hợp tác xã không có bảo hiểm xã hội bắt buộc; (ii) chủ cơ sở, lao động tự làm, lao động làm công ăn lương và lao động gia đình tại cơ sở thuộc khu vực phi chính thức; (iii) lao động tự làm phục vụ nhu cầu tự tiêu dùng của hộ gia đình và lao động làm thuê trong các hộ gia đình.
17 Năng suất lao động xã hội của toàn nền kinh tế theo giá hiện hành năm 2011-2017 lần lượt là: 55,2 triệu đồng/lao động; 63,1 triệu đồng/lao động; 68,7 triệu đồng/lao động; 74,7 triệu đồng/lao động; 79,4 triệu đồng/lao động; 84,5 triệu đồng/lao động; 93,2 triệu đồng/lao động.
19 Chênh lệch mức NSLĐ (tính theo PPP 2011) của Xin-ga-po và Việt Nam tăng từ 115.087 USD năm 2006 lên 131.333 USD năm 2016; tương tự, của Ma-lai-xi-a từ 39.806 USD lên 46.190 USD; Thái Lan từ 14.591 USD lên 17.208 USD; In-đô-nê-xi-a từ 10.100 USD lên 13.496 USD; Phi-li-pin từ 6.691 USD lên 7.561 USD; Lào từ 220 USD lên 1.422 USD (Nguồn số liệu WB).
20 Theo Quyết định số 59/2015/QĐ-TTg ngày 19/11/2015 của Thủ tướng Chính phủ.

Nguồn tin: TỔNG CỤC THỐNG KÊ