Tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam năm 2013

Thứ năm - 16/01/2014 22:28
Kinh thế thế giới năm 2013 vẫn còn nhiều bất ổn và biến động phức tạp. Tăng trưởng kinh tế của các nước thuộc khu vực đồng tiền chung châu Âu, đặc biệt là một số nước thành viên đang chịu ảnh hưởng của nợ công vẫn còn rất mờ nhạt. Khủng hoảng tài chính và khủng hoảng nợ công ở châu Âu chưa hoàn toàn chấm dứt. Mặc dù có một vài dấu hiệu tích cực cho thấy các hoạt động kinh tế đang phục hồi trở lại sau suy thoái nhưng triển vọng kinh tế toàn cầu nhìn chung chưa vững chắc, nhất là đối với các nền kinh tế phát triển. Việc tạo công ăn việc làm được xem là một thách thức lớn của các nước phát triển. Những yếu tố không thuận lợi đó từ thị trường thế giới tiếp tục ảnh hưởng đến kinh tế - xã hội nước ta. Ở trong nước, các khó khăn, bất cập chưa được giải quyết gây áp lực lớn cho sản xuất kinh doanh: Hàng tồn kho ở mức cao, sức mua yếu, tỷ lệ nợ xấu ngân hàng ở mức đáng lo ngại, nhiều doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất, dừng hoạt động hoặc giải thể...
Trước tình hình đó, ngay từ đầu năm, Chính phủ đã kịp thời ban hành hai Nghị quyết quan trọng là Nghị quyết số 01/NQ-CP về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2013 và Nghị quyết số 02/NQ-CP về một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường, giải quyết nợ xấu.
Mục tiêu tổng quát của phát triển kinh tế - xã hội năm 2013 là: “Tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô; lạm phát thấp hơn, tăng trưởng cao hơn năm 2012. Đẩy mạnh thực hiện ba đột phá chiến lược gắn với tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội. Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế. Tăng cường quốc phòng, an ninh và bảo đảm ổn định chính trị-xã hội. Tạo nền tảng phát triển vững chắc hơn cho những năm tiếp theo.
Trong bối cảnh tình hình trong nước và thế giới còn nhiều khó khăn, thách thức, để thực hiện tốt cácmục tiêu và chỉ tiêu chủ yếu của năm, Chính phủ đã chỉ đạo quyết liệt các ngành, địa phương thực hiện tích cực và đồng bộ các giải pháp, chủ động khắc phục khó khăn để từng bước ổn định và phát triển sản xuất kinh doanh. Kết quả đạt được trong năm vừa qua thể hiện sự nỗ lực cố gắng rất lớn của cả hệ thống chính trị, của toàn quân và toàn dân ta.
TĂNG TRƯỞNG KINH TỂ
Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2013 ước tính tăng 5,42% so với năm 2012trong đó quý I tăng 4,76%; quý II tăng 5,00%; quý III tăng 5,54%; quý IV tăng 6,04%. Mức tăng trưởng năm nay tuy thấp hơn mục tiêu tăng 5,5% đề ra nhưng cao hơn mức tăng 5,25% của năm 2012 và có tín hiệu phục hồi. Trong bối cảnh kinh tế thế giới những năm qua có nhiều bất ổn, sản xuất trong nước gặp khó khăn, lạm phát tăng cao, Chính phủ tập trung chỉ đạo quyết liệt các ngành, các cấp thực hiện ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô nên đây là mức tăng hợp lý, khẳng định tính đúng đắn, kịp thời, hiệu quả của các biện pháp, giải pháp được Chính phủ ban hành.
Trong mức tăng 5,42% của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,67%, xấp xỉ mức tăng năm trước, đóng góp 0,48 điểm phần trăm; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 5,43%, thấp hơn mức tăng 5,75% của năm trước, đóng góp 2,09 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ tăng 6,56%, cao hơn mức tăng 5,9% của năm 2012, đóng góp 2,85 điểm phần trăm.
Như vậy mức tăng trưởng năm nay chủ yếu do đóng góp của khu vực dịch vụ, trong đó một số ngành chiếm tỷ trọng lớn có mức tăng khá là: Bán buôn và bán lẻ tăng 6,52%; dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 9,91%; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 6,89%.
Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, tuy mức tăng của ngành công nghiệp không cao (5,35%) nhưng ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng khá ở mức 7,44% (Năm 2012 tăng 5,80%) đã tác động đến mức tăng GDP chung. Ngành xây dựng mặc dù chiếm tỷ trọng không lớn nhưng đạt mức tăng 5,83%, cao hơn nhiều mức tăng 3,25% của năm trước cũng là yếu tố tích cực trong tăng trưởng kinh tế năm nay.
Về cơ cấu trong quy mô nền kinh tế cả năm, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 18,4%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 38,3% và khu vực dịch vụ chiếm 43,3% (Năm 2012 các tỷ trọng tương ứng là: 19,7%; 38,6% và 41,7%).
Xét về góc độ sử dụng GDP năm nay, tiêu dùng cuối cùng tăng 5,36% so với năm 2012, đóng góp 3,72 điểm phần trăm vào mức tăng chung; tích lũy tài sản tăng 5,45%, đóng góp 1,62 điểm phần trăm; chênh lệch xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ đóng góp 0,08 điểm phần trăm do xuất siêu.
Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước
theo giá so sánh 2010 (Năm trước = 100)
Đơn vị tính: %
Năm 2012
Năm 2013
TỔNG SỐ
5,25
5,42
Phân theo khu vực kinh tế
Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
2,68
2,67
Công nghiệp và xây dựng
5,75
5,43
Dịch vụ
5,90
6,56
Phân theo quý trong năm
Quý I
4,75
4,76
Quý II
5,08
5,00
Quý III
5,39
5,54
Quý IV
5,57
6,04
Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2013 bị ảnh hưởng lớn của thời tiết nắng hạn kéo dài đầu năm và tình trạng xâm nhập mặn diễn ra ở nhiều địa phương phía Nam làm hàng trăm nghìn ha lúa, hoa màu và cây công nghiệp bị ngập úng, dẫn đến năng suất nhiều loại cây trồng giảm so với năm trước. Bên cạnh đó, thị trường tiêu thụ sản phẩm cả trong và ngoài nước bị thu hẹp; giá bán nhiều sản phẩm, nhất là sản phẩm chăn nuôi, thủy sản ở mức thấp trong khi giá vật tư, nguyên liệu đầu vào tiếp tục tăng cao gây nhiều khó khăn cho phát triển chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản; dịch bệnh trên gia súc, gia cầm vẫn xảy ra rải rác ở khắp các địa phương gây tâm lý lo ngại cho người nuôi. Do đógiá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản đạt mức thấp hơn năm trước.
Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản năm 2013 theo giá so sánh 2010 ước tính đạt 801,2 nghìn tỷ đồng, tăng 2,95% so với năm 2012, bao gồm: Nông nghiệp đạt 602,3 nghìn tỷ đồng, tăng 2,47%; lâm nghiệp đạt 22,4 nghìn tỷ đồng, tăng 6,04%; thuỷ sản đạt 176,5 nghìn tỷ đồng, tăng 4,22%.
Nông nghiệp
Sản lượng lúa cả năm 2013 ước tính đạt 44,1 triệu tấn, tăng 338,3 nghìn tấn so với năm trước (Năm 2012 tăng 1,3 triệu tấn so với năm 2011), trong đó diện tích gieo trồng ước tính đạt 7,9 triệu ha, tăng 138,7 nghìn ha, năng suất đạt 55,8 tạ/ha, giảm 0,6 tạ/ha. Nếu tính thêm 5,2 triệu tấn ngô thì tổng sản lượng lương thực có hạt năm nay ước tính đạt 49,3 triệu tấn, tăng 558,5 nghìn tấn so với năm trước (Năm 2012 tăng 1,5 triệu tấn so với năm 2011).
Trong sản xuất lúa, diện tích gieo trồng lúa đông xuân đạt 3140,7 nghìn ha, tăng 16,4 nghìn ha so với vụ đông xuân trước; sản lượng đạt 20,2 triệu tấn, giảm 54,4 nghìn tấn do năng suất đạt 64,4 tạ/ha, giảm 0,5 tạ/ha. Diện tích gieo trồng lúa hè thu đạt 2146,9 nghìn ha, tăng 15,1 nghìn ha so với vụ trước; sản lượng đạt 11,2 triệu tấn, giảm 81,6 nghìn tấn do năng suất chỉ đạt 52,2 tạ/ha, giảm 0,8 tạ/ha. Một số địa phương có sản lượng lúa hè thu giảm nhiều là: Sóc Trăng giảm 86,4 nghìn tấn; Trà Vinh giảm 16,7 nghìn tấn; Bến Tre và Thừa Thiên - Huế cùng giảm 17,3 nghìn tấn; Quảng Trị giảm 10,7 nghìn tấn; Cà Mau giảm 9,8 nghìn tấn; An Giang giảm 8,9 nghìn tấn. Riêng vụ thu đông 2013 ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long tăng cả về diện tích, năng suất và sản lượng. Diện tích gieo trồng đạt 626,4 nghìn ha, tăng 99 nghìn ha, năng suất đạt 51,7 tạ/ha, tăng 1,3 tạ/ha; sản lượng đạt 3,2 triệu tấn, tăng 578,8 nghìn tấn.
Diện tích gieo trồng lúa mùa đạt 1985,4 nghìn ha, tăng 7,6 nghìn ha so với vụ mùa năm 2012 nhờ chủ động trong luân canh trồng lúa. Tuy nhiên, sản lượng lúa mùa ước tính đạt gần 9,4 triệu tấn, giảm 104,4 nghìn tấn do năng suất chỉ đạt 47,3 tạ/ha, giảm 0,7 tạ/ha. Sản lượng lúa mùa của các địa phương phía Bắc đạt 5677,2 nghìn tấn, giảm 181,3 nghìn tấn; năng suất đạt 47,9 tạ/ha, giảm 1,6 tạ/ha. Sản lượng lúa mùa của các địa phương phía Nam đạt 3706,3 nghìn ha, tăng 76,9 nghìn tấn, riêng vùng Đồng bằng sông Cửu Long tăng 67,6 nghìn tấn.
Sản xuất cây vụ đông ở các tỉnh phía Bắc tăng so với năm trước, trong đó lạc đạt 492,6 nghìn tấn, tăng 5,2%; vừng đạt 33,2 nghìn tấn, tăng 9,9%; rau các loại đạt 14,6 triệu tấn, tăng 5,2%, chỉ có đậu tương đạt 168,4 nghìn tấn, giảm 3%.
Cây công nghiệp lâu năm tiếp tục phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu nên cơ cấu cây trồng được thay đổi phù hợp với điều kiện canh tác của từng vùng. Diện tích cho sản phẩm và sản lượng một số cây chủ yếu tăng so với năm 2012, trong đó diện tích chè ước tính đạt 114,1 nghìn ha, bằng cùng kỳ năm trước, sản lượng đạt 921,7 nghìn tấn, tăng 1,3%; cà phê diện tích đạt 584,6 nghìn ha, tăng 2,1%, sản lượng đạt 1289,5 nghìn tấn, tăng 2,3%; cao su diện tích đạt 545,6 nghìn ha, tăng 7%, sản lượng đạt 949,1 nghìn tấn, tăng 8,2%; hồ tiêu diện tích đạt 51,1 nghìn ha, tăng 6%, sản lượng đạt 122,1 nghìn tấn, tăng 5,3%.
Sản lượng một số cây ăn quả đạt khá, trong đó sản lượng cam năm 2013 ước tính đạt 530,9 nghìn tấn, tăng 1,7% so với năm 2012; chuối đạt 1,9 triệu tấn, tăng 5,6%; bưởi đạt 449,3 nghìn tấn, tăng 2,2%. Tuy nhiên, một số cây khác do ảnh hưởng của thời tiết và một phần diện tích đang được cải tạo, chuyển đổi nên sản lượng giảm như: Sản lượng vải, chôm chôm đạt 641,1 nghìn tấn, giảm 1,1% so với năm 2012; quýt đạt 177,7 nghìn tấn, giảm 2,4%.
Chăn nuôi gia súc, gia cầm những tháng cuối năm mặc dù có thuận lợi về thị trường tiêu thụ do giá bán các sản phẩm có xu hướng tăng nhưng nhìn chung tình hình chăn nuôi chưa thật ổn định. Đàn trâu cả nước năm 2013 có 2,6 triệu con, giảm 2,6% so với năm 2012; đàn bò có 5,2 triệu con, giảm 0,7%, riêng nuôi bò sữa vẫn phát triển, tổng đàn bò sữa năm 2013 của cả nước đạt 186,3 nghìn con, tăng 11,6%; đàn lợn có 26,3 triệu con, giảm 0,9%; đàn gia cầm có 314,7 triệu con, tăng 2,04%, trong đó đàn gà 231,8 triệu con, tăng 3,6%. Sản lượng thịt hơi các loại năm 2013 ước tính đạt 4,3 triệu tấn, tăng 1,5% so với năm trước, trong đó sản lượng thịt trâu giảm 3,5%; sản lượng thịt bò giảm 2,9%; sản lượng thịt lợn tăng 1,8%; sản lượng thịt gia cầm tăng 2,4%.
Tính đến ngày 18/12/2013 cả nước không còn địa phương nào có dịch lợn tai xanh và dịch lở mồm long móng chưa qua 21 ngày, dịch cúm gia cầm chưa qua 21 ngày còn có ở tỉnh Hòa Bình.
Lâm nghiệp
Diện tích rừng trồng tập trung năm 2013 ước tính đạt 205,1 nghìn ha, tăng 9,7% so với năm 2012. Một số địa phương có diện tích rừng trồng mới tập trung nhiều là: Nghệ An 15,3 nghìn ha; Yên Bái 14,9 nghìn ha; Tuyên Quang 13,2 nghìn ha; Quảng Nam 12 nghìn ha; Bắc Kạn 11,4 nghìn ha; Thanh Hóa 10,7 nghìn ha. Số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 182,2 triệu cây, tăng 1,6% so với năm trước.
Sản lượng gỗ khai thác cả năm đạt 5608 nghìn m3, tăng 6,8% so với năm 2012. Nguyên nhân chủ yếu do tiêu thụ sản phẩm gỗ nguyên liệu năm nay có nhiều thuận lợi, kim ngạch xuất khẩu gỗ vả sản phẩm gỗ tăng khá. Sản phẩm gỗ tiêu thụ tăng một mặt giải quyết được lượng gỗ thương phẩm đến kỳ khai thác của người sản xuất, mặt khác góp phần thúc đẩy hoạt động trồng rừng phát triển tại nhiều địa phương. Một số địa phương có sản lượng gỗ khai thác lớn và tăng nhiều so với năm trước là: Quảng Nam 410 nghìn m3, tăng 81%; Yên Bái 390 nghìn m3, tăng 15,5%; Quảng Ninh 348,5 nghìn m3, tăng 16,3%; Quảng Ngãi 310 nghìn m3, tăng 42,7%; Quảng Trị 295,3 nghìn m3, tăng 77%; Thanh Hóa 278 nghìn m3, gấp hai lần; Quảng Bình 251,2 nghìn m3, tăng 21,7%; Hà Tĩnh 224,3 nghìn m3, tăng 36,9%. Sản lượng củi khai thác đạt 28 triệu ste, tăng 2,2%.
Do thời tiết trong năm có mưa nhiều cùng với công tác phòng chống cháy rừng được các cấp, các ngành tiếp tục quan tâm thường xuyên nên tình trạng cháy rừng và chặt phá rừng giảm đáng kể. Tổng diện tích rừng bị thiệt hại năm 2013 là 1964 ha, giảm 39,1% so với năm trước, bao gồm: Diện tích rừng bị cháy 1156 ha, giảm 44,7%; diện tích rừng bị chặt phá 808 ha, giảm 28,7%. Một số tỉnh có diện tích rừng bị cháy nhiều là: Gia Lai 411,1 ha; Bình Phước 93,1 ha; Bình Thuận 80,3 ha; Hà Giang 79,3 ha; Cà Mau 44,3 ha; Lạng Sơn 44 ha; Đắk Lắk 41,1 ha. Một số tỉnh có diện tích rừng bị chặt, phá nhiều là: Đắk Nông 141,9 ha; Quảng Nam 103 ha; Lâm Đồng 102,2 ha; Kon Tum 75,3 ha.
Thủy sản
Sản lượng thuỷ sản năm 2013 ước tính đạt 5918,6 nghìn tấn, tăng 3,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 4400 nghìn tấn, tăng 1,3%; tôm đạt 704 nghìn tấn, tăng 11,7%. Diện tích nuôi trồng thủy sản đạt 1037 nghìn ha, giảm 0,2% so với năm 2012, trong đó diện tích nuôi cá tra 10 nghìn ha, giảm 7,2%; diện tích nuôi tôm 637 nghìn ha, tăng 1,6%.
Sản lượng thuỷ sản nuôi trồng cả năm ước tính đạt 3210 nghìn tấn, tăng 3,2% so với năm trước, trong đó cá 2407 nghìn tấn, tăng 0,2%; tôm 544,9 nghìn tấn, tăng 15%. Diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng có xu hướng phát triển mạnh thay cho nuôi tôm sú vì loại tôm này cho năng suất cao, thời gian nuôi ngắn và ít bị bệnh hơn. Năm 2013, diện tích thả nuôi tôm thẻ chân trắng là 65,2 nghìn ha, gấp gần 2 lần so với năm trước; sản lượng đạt 230 nghìn tấn, tăng 56,5%.
Sản lượng cá tra cả năm ước tính đạt 1170 nghìn tấn, giảm 6% so với năm 2012. Sản lượng cá tra giảm do sản xuất gặp khó khăn trong thời gian dài do giá bán cá tra nguyên liệu giảm trong khi giá chi phí đầu vào tăng. Tuy nhiên, nuôi cá tra đang có những chuyển dịch khá mạnh theo hướng tăng diện tích thả nuôi ở khu vực doanh nghiệp và giảm diện tích thả nuôi ở khu vực hộ gia đình. Diện tích nuôi cá tra của các doanh nghiệp tại một số địa phương như sau: Bến Tre 1823 ha, tăng 50% so với năm trước; Đồng Tháp 1080 ha, tăng 20%; An Giang 538 ha, tăng 70%; Tiền Giang 127 ha, tăng 40%. Nhiều cơ sở nuôi cá tra đang từng bước nâng cao kỹ thuật, áp dụng các quy trình chuẩn nuôi thủy sản an toàn nhằm tạo ra sản phẩm đảm bảo chất lượng, nâng cao giá trị xuất khẩu. Nuôi cá và các loài thủy sản khác phát triển mạnh, tập trung vào các loài đặc sản có giá trị kinh tế cao, phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước như: Cá diêu hồng, rô phi, trắm đen, cá sấu, ba ba, nghêu...
Thời tiết không thuận lợi, nhiều mưa bão, giá xăng dầu tăng làm ảnh hưởng lớn đến hoạt động khai thác thủy sản. Tuy nhiên, được sự quan tâm, tạo điều kiện của chính quyền địa phương nên sản lượng thủy sản khai thác năm nay vẫn tăng, ước tính đạt 2709 nghìn tấn, tăng 3,3% so với năm trước, trong đó khai thác biển đạt 2519 nghìn tấn, tăng 3,5%. Sản lượng khai thác cá ngừ đại dương có xu hướng giảm nhiều, chỉ đạt 13 nghìn tấn, giảm 15% so với năm 2012, chủ yếu do chất lượng cá không đạt tiêu chuẩn xuất khẩu và giá tiêu thụ giảm mạnh.
Sản xuất công nghiệp
Sản xuất công nghiệp năm 2013 có dấu hiệu phục hồi, nhất là ngành công nghiệp chế biến chế tạo với tỷ trọng lớn trong toàn ngành công nghiệp đã có sự chuyển biến rõ nét qua các quý. Chỉ số tồn kho, chỉ số tiêu thụ diễn biến theo xu hướng tích cực. Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng Mười Hai ước tính tăng 7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành khai khoáng tăng 0,7%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 8,8%; sản xuất và phân phối điện tăng 8,7%; cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 10,1%.
Tính chung cả năm 2013, IIP ước tính tăng 5,9% so với năm trước, cao hơn mức tăng năm 2012, trong đóquí I tăng 5%; quí II tăng 5,5%; quí III tăng 5,4% và quí IV tăng 8%. Nếu loại trừ tháng Một (IIP tăng 27,5%) và tháng Hai (IIP giảm 15,1%) do ảnh hưởng của yếu tố thời vụ là Tết Nguyên đán thì từ tháng Ba, IIP đạt mức 5 - 6% [1].
Trong các ngành công nghiệp cấp I, ngành khai khoáng (Chiếm 21,3% giá trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp) giảm 0,2% so với năm trước; công nghiệp chế biến, chế tạo (Chiếm khoảng 71% giá trị tăng thêm toàn ngành) tăng 7,4%, cao hơn nhiều mức tăng 5,5% của năm 2012, trong đó quý I tăng 5,3%; quý II tăng 6,9%; quý III tăng 7,8% và quý IV tăng 10,1% [2]; ngành sản xuất, phân phối điện (Chiếm 6,7% giá trị tăng thêm toàn ngành) tăng 8,5%; ngành cung cấp nước và xử lý nước thải, rác thải (Chiếm 1,1% giá trị tăng thêm toàn ngành) tăng 9,1%. Trong mức tăng chung của toàn ngành năm nay, ngành chế biến, chế tạo đóng góp 5,3 điểm phần trăm; sản xuất và phân phối điện đóng góp 0,6 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, xử lý nước thải, rác thải đóng góp 0,1 điểm phần trăm; riêng ngành khai thác làm giảm 0,1 điểm phần trăm.
Một số ngành công nghiệp có chỉ số sản xuất tăng cao trong cả năm 2013 so với năm 2012 là: Dệt tăng 21,8%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 15,3%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc thiết bị) tăng 14,4%; sản xuất xe có động cơ tăng 13,5%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 11,6%; sản xuất trang phục tăng 10,4%; sản xuất thiết bị điện tăng 9,6%; khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 9,5%; sản xuất giấy và các sản phẩm từ giấy tăng 9%. Một số ngành có mức tăng khá là: Sản xuất đồ uống tăng 8,8%; sản xuất và phân phối điện tăng 8,5%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy tính và quang học tăng 7,7%. Một số ngành có mức tăng thấp hoặc giảm là: Sản xuất thuốc lá tăng 6,7%; sản xuất hóa chất và các sản phẩm hóa chất tăng 6,7%; sản xuất, chế biến thực phẩm tăng 6%; khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên tăng 0,5%; khai thác than cứng và than non giảm 1,8%; sản xuất kim loại giảm 2,6%; khai khoáng khác giảm 5,3%.
Chỉ số sản xuất công nghiệp cả năm 2013 so với năm 2012 của một số địa phương như sau: Thành phố Hồ Chí Minh tăng 6,3%; Đồng Nai tăng 7,6%; Bình Dương tăng 8,7%; Hà Nội tăng 4,5%; Hải Phòng tăng 4,3%; Bắc Ninh tăng 2,9%; Vĩnh Phúc tăng 14%; Cần Thơ tăng 7,7%; Hải Dương tăng 8,1%; Đà Nẵng tăng 10,5%; Bà Rịa - Vũng Tàu giảm 3,8%; Quảng Ninh tăng 0,1%; Quảng Nam tăng 9,6%; Quảng Ngãi tăng 6,6%.
Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo mười một tháng năm nay tăng 9,2% so với cùng kỳ năm trước (Cùng kỳ năm 2011 tăng 1,5% và năm 2012 tăng 3,6%).
Trong các ngành công nghiệp cấp II, một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng cao là: Sản xuất xe có động cơ tăng 35,2%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 29,5%; sản xuất thiết bị điện tăng 19,4%; sản xuất các sản phẩm từ cao su và plastic tăng 16,6%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc thiết bị) tăng 13,9%; sản xuất đồ uống tăng 13,7%; dệt tăng 12,8%. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ mườimộttháng tăng thấp hoặc giảm là: Sản xuất, chế biến thực phẩm tăng 7,2%; sản xuất thuốc lá tăng 6,8%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 2,3%; sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất giảm 1,1%; sản xuất kim loại giảm 1,5%; sản xuất giường, tủ, bàn ghế giảm 9,3%.
Chỉ số tồn kho tại thời điểm 01/12/2013 toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 10,2% so với cùng thời điểm năm 2012 (Cùng kỳ năm 2011 là 23%; năm 2012 là 20,1%).
Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng thấp hơn mức tăng chung hoặc giảm là: Sản xuất, chế biến thực phẩm tăng 8,8%; dệt tăng 6,3%; sản xuất trang phục giảm 1,4%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm 11,3%; sản xuất đồ uống giảm 21,9%; sản xuất xe có động cơ giảm 37,8%. Tuy nhiên, vẫn còn những ngành có chỉ số tồn kho tăng cao hơn nhiều so với mức tăng chung như: Sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 127,5%; sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu tăng 96,4%; sản xuất kim loại tăng 45,9%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 32,7%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 27,6%. Tỷ lệ tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng Mười Một là 71,1%; tỷ lệ tồn kho bình quân mười một tháng năm nay là 73,7%, trong đó một số ngành có tỷ lệ tồn kho bình quân mười một tháng cao là: Sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất 121,3%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu115,1%.
Chỉ số tiêu thụ của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo có xu hướng tăng dần dẫn đến tồn kho giảm dần. Mặc dù mức giảm chưa nhiều nhưng đây là tín hiệu tốt đối với sản xuất công nghiệp trong thời gian tới. Nguyên nhân chủ yếu do tác dụng thực hiện các giải pháp của Chính phủ trong tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, từng bước ổn định sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, giảm hàng tồn kho hiệu quả. Mặt khác do kinh tế thế giới và đặc biệt là khu vực châu Âu bắt đầu phục hồi đã tác động tích cực đến nhu cầu tiêu thụ sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam.
Tỷ lệ tồn kho năm nay (giữa giá trị hàng tồn kho cuối tháng so với giá trị sản xuất của tháng) cần được xem xét trong bức tranh toàn cảnh của ngành công nghiệp. Từ đầu năm, tỷ lệ tồn kho luôn ở mức cao với trên 70% mặc dù đã có xu hướng giảm dần [3] (Tỷ lệ tồn kho ở mức an toàn trong điều kiện sản xuất và tiêu thụ bình thường khoảng 65%).
Chỉ số sử dụng lao động của các doanh nghiệp công nghiệp thời điểm 01/12/2013 tăng 0,8% so với tháng 11 năm 2013 và tăng 4,3% so với cùng thời điểm năm trước. So với cùng thời điểm năm trước, khu vực doanh nghiệp Nhà nước giảm 0,3%; khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước tăng 3,2%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 6,6%. Theo ngành kinh tế cấp I, công nghiệp khai khoáng giảm 1%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,7%; sản xuất và phân phối điện tăng 3%; cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 3,2%.
Những ngành công nghiệp cấp II có chỉ số sử dụng lao động tại thời điểm 01/12/2013 tăng cao so với cùng kỳ năm trước là: Sản xuất xe có động cơ tăng 14%; sản xuất kim loại tăng 11%; sản xuất da và các sản phẩm từ da tăng 9,1%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy tính tăng 8,9%; dệt tăng 8,1%; sản xuất trang phục tăng 7,6%; sản xuất giường tủ bàn ghế tăng 6,2%. Những ngành có chỉ số lao động tại thời điểm 01/12/2013 tăng thấp hoặc giảm so với cùng thời điểm năm trước gồm: Sản xuất và phân phối điện tăng 3%; sản xuất, chế biến thực phẩm tăng 2,6%; sản xuất đồ uống tăng 1,6%; sản xuất sản phẩm thuốc lá giảm 3,9%; khai khoáng khác giảm 9,1%.
Tình hình hoạt động của doanh nghiệp
Ước tính năm 2013, tổng số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới là 76955 doanh nghiệp, tăng 10,1% so với năm 2012 với tổng vốn đăng ký là 398,7 nghìn tỷ đồng, giảm 14,7%. Số doanh nghiệp gặp khó khăn phải giải thể hoặc ngừng hoạt động năm nay là 60737 doanh nghiệp, tăng 11,9% so với năm trước, trong đó số doanh nghiệp đã giải thể là 9818 doanh nghiệp, tăng 4,9%; số doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động là 10803 doanh nghiệp, tăng 35,7%; số doanh nghiệp ngừng hoạt động nhưng không đăng ký là 40116 doanh nghiệp, tăng 8,6%.
Về hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước, theo kết quả điều tra tại thời điểm 01/01/2013 cả nước có 3135 doanh nghiệp Nhà nước, bao gồm: 405 doanh nghiệp nông, lâm nghiệp và thủy sản, chiếm 12,9%; 1401 doanh nghiệp công nghiệp và xây dựng, chiếm 44,7% và 1329 doanh nghiệp dịch vụ, chiếm 42,4%.
Kết quả điều tra có 2893 doanh nghiệp trả lời, trong đó 2854 doanh nghiệp thực tế đang hoạt động, chiếm 98,7%; 39 doanh nghiệp ngừng hoạt động, chiếm 1,3%, bao gồm 24 doanh nghiệp có 100% vốn nhà nước và 15 doanh nghiệp vốn nhà nước trên 50%. Trong số 24 doanh nghiệp có 100% vốn nhà nước ngừng hoạt động thì tỷ lệ doanh nghiệp chờ giải thể, phá sản là 41,7%; doanh nghiệp chờ sắp xếp lại là 29,2%, doanh nghiệp ngừng để đầu tư đổi mới công nghệ là 12,5%, còn lại là nguyên nhân khác. Trong số 15 doanh nghiệp có vốn nhà nước trên 50% ngừng hoạt động, tỷ lệ doanh nghiệp chờ giải thể, phá sản và chờ sắp xếp lại cùng chiếm 40%, còn lại là nguyên nhân khác.
Trong tổng 39 doanh nghiệp ngừng hoạt động, số doanh nghiệp chờ giải thể, phá sản chiếm tỷ lệ cao nhất với 41%, số doanh nghiệp chờ sắp xếp lại chiếm 33,3%; số doanh nghiệp ngừng để đầu tư đổi mới công nghệ chiếm 10,3% và số doanh nghiệp ngừng vì lý do khác chiếm 15,4%.
Về lý do ngừng hoạt động, 56,4% số doanh nghiệp trả lời do sản xuất thua lỗ kéo dài, 5,1% trả lời do năng lực quản lý, điều hành hạn chế và 38,5% trả lời do nguyên nhân khác như thiếu vốn sản xuất kinh doanh, không tìm kiếm được thị trường hoặc đang thuộc diện bán hoặc chờ sắp xếp lại.
So với năm 2000, số doanh nghiệp nhà nước tại thời điểm 01/01/2013 bằng 54,4%, giảm 2624 doanh nghiệp; tổng doanh thu năm 2012 gấp 6,9 lần năm 2000; tổng lợi nhuận trước thuế gấp 9,4 lần; tổng nộp ngân sách nhà nước gấp 8,1 lần.
Thị ph�n cung cấp sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ của các doanh nghiệp nhà nước cho thị trường trong nước chiếm khoảng 32,2%, trong đó thị phần của doanh nghiệp nông, lâm nghiệp và thủy sản là 41,9%; ngành công nghiệp và xây dựng là 30,4% và ngành dịch vụ là 30,5%.
Trong tổng số 2893 doanh nghiệp trên, có 1347 doanh nghiệp thuộc đối tượng cổ phần hóa (tính đến 01/01/2013 đã có có 1142 doanh nghiệp đã cổ phần hóa, chiếm 84,8% và 205 doanh nghiệp đang và chưa cổ phần hóa chiếm 15,2%) và 1546 doanh nghiệp không thuộc đối tượng cổ phần hóa mà chuyển đổi, sáp nhập hoặc chuyển sang công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên.
Qua kết quả điều tra cho thấy, tỷ suất lợi nhuận/doanh thu của các doanh nghiệp được cổ phần hóa có xu hướng tăng so với thời điểm trước sắp xếp, đổi mới, cổ phần hóa, cụ thể: 39,6% doanh nghiệp có tỷ suất lợi nhuận tăng trên 10%; 36,5% doanh nghiệp tăng dưới 10%; 36,5% doanh nghiệp không tăng, không giảm và 8,5% doanh nghiệp giảm.
Hoạt động dịch vụ
Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Trong bối cảnh khó khăn chung, các doanh nghiệp hoạt động lĩnh vực thương mại, dịch vụ và xuất khẩu liên tục đối mặt với nhiều thách thức gây ảnh hưởng không nhỏ tới sản xuất kinh doanh. Hoạt động bán lẻ từ năm 2011 đến nay nhìn chung chậm lại trên tất cả các kênh truyền thống cũng như siêu thị.
Tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2013 ước tính đạt 2618 nghìn tỷ đồng, tăng 12,6% so với năm 2012 và là mức tăng thấp nhất trong vòng bốn năm trở lại đây, loại trừ yếu tố giá năm 2013 tăng 5,6%; năm 2012 tăng 6,5%; năm 2011 tăng 4,4%. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2013 của khu vực kinh tế nhà nước đạt 258,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 9,9% và giảm 8,6% so với năm 2012; kinh tế ngoài nhà nước đạt 2269,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 86,7% và tăng 15,3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 89,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 3,4% và tăng 32,8%. Xét theo ngành kinh doanh, kinh doanh thương nghiệp đạt 2009,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 76,7% tổng mức và tăng 12,2%; khách sạn nhà hàng đạt 315,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 12,1% và tăng 15,2%; dịch vụ đạt 268,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 10,3% và tăng 13,3%; du lịch đạt 24,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 0,9% và tăng 3,5%.
Vận tải hành khách và hàng hóa
Vận tải hành khách năm 2013 ước tính đạt 2950,1 triệu lượt khách, tăng 6,3% và 123,1 tỷ lượt khách.km, tăng 5,4% so với năm 2012, bao gồm: Vận tải Trung ương đạt 33,3 triệu lượt khách, tăng 5,9% và 30 tỷ lượt khách.km, tăng 9%; vận tải địa phương đạt 2916,9 triệu lượt khách, tăng 6,3% và 93,1 tỷ lượt khách.km, tăng 4,3%. Vận tải hành khách đường bộ ước tính đạt 2776,3 triệu lượt khách, tăng 6,5% và 88,9 tỷ lượt khách.km, tăng 4,4% so với năm trước; đường sông đạt 140 triệu lượt khách, tăng 2% và 2,7 tỷ lượt khách.km, tăng 4,1%; đường hàng không đạt 16,9 triệu lượt khách, tăng 11,2% và 26,9 tỷ lượt khách.km, tăng 11%; đường biển đạt 4,8 triệu lượt khách, tăng 4,1% và 243,1 triệu lượt khách.km, tăng 3,6%; đường sắt đạt 12,1 triệu lượt khách, giảm 0,6% và 4,4 tỷ lượt khách.km, giảm 3,5%.
Vận tải hàng hóa năm 2013 ước tính đạt 1011,1 triệu tấn, tăng 5,4% và 208,5 tỷ tấn.km, giảm 0,4% so với năm trước, bao gồm: Vận tải trong nước đạt 980,3 triệu tấn, tăng 5,7% và 91,2 tỷ tấn.km, tăng 5,2%; vận tải ngoài nước đạt 30,8 triệu tấn, giảm 4,4% và 117,3 tỷ tấn.km, giảm 4,3%. Vận tải hàng hoá đường bộ đạt 765,1 triệu tấn, tăng 5,9% và 46,8 tỷ tấn.km, tăng 6,5%; đường sông đạt 180,8 triệu tấn, tăng 7,3% và 39,3 tỷ tấn.km, tăng 6,3%; đường biển đạt 58,5 triệu tấn, giảm 5,1% và 118 tỷ tấn.km, giảm 4,6%; đường sắt đạt 6,5 triệu tấn, giảm 6,8% và 3,8 tỷ tấn.km, giảm 5,5%.
Khách quốc tế đến Việt Nam
Khách quốc tế đến nước ta năm 2013 ước tính đạt 7572,4 nghìn lượt người, tăng 10,6% so với năm trước, trong đó khách đến với mục đích du lịch, nghỉ dưỡng đạt 4640,9 nghìn lượt người, tăng 12,2%; đến vì công việc 1266,9 nghìn lượt người, tăng 8,7%; thăm thân nhân đạt 1259,6 nghìn lượt người, tăng 9,4%. Khách quốc tế đến nước ta bằng đường hàng không là 5980 nghìn lượt người, tăng 7,2% so với năm 2012; đến bằng đường biển 193,3 nghìn lượt người, giảm 32,3%; đến bằng đường bộ 1399,1 nghìn lượt người, tăng 41,9%.
Trong năm 2013, một số quốc gia và vùng lãnh thổ có lượng khách đến nước ta tăng so với cùng kỳ năm trước là: Trung Quốc đạt 1907,8 nghìn lượt người, tăng 33,5%; Hàn Quốc 748,7 nghìn lượt người, tăng 6,8%; Nhật Bản 604,1 nghìn lượt người, tăng 4,8%; Cam-pu-chia 342,3 nghìn lượt người, tăng 3,1%, Ma-lai-xi-a 339,5 nghìn lượt người, tăng 13,5%; Ôx-trây-li-a 319,6 nghìn lượt người, tăng 10,3%; Liên bang Nga 298,1 nghìn lượt người, tăng 71,1%; Thái Lan 269 nghìn lượt người, tăng 19,1%; Anh 184,7 nghìn lượt người, tăng 8,4%; Phi-li-pin 100,5 nghìn lượt người, tăng 1,3%; In-đô-nê-xi-a 70,4 nghìn lượt người, tăng 15,7%. Một số nước và vùng lãnh thổ có lượng khách đến nước ta giảm so với cùng kỳ năm trước là: Hoa Kỳ 432,2 nghìn lượt người, giảm 2,6%; Đài Loan 399 nghìn lượt người, giảm 2,5%; Pháp 209,9 nghìn lượt người, giảm 4,4%; Xin-ga-po 195,8 nghìn lượt người, giảm 0,2%; Lào 122,8 nghìn lượt người, giảm 18,5%; Ca-na-đa 105 nghìn lượt người, giảm 7,6%; Đức 97,7 nghìn lượt người, giảm 8,4%.
ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ, KIỀM CHẾ LẠM PHÁT
Xây dựng, đầu tư phát triển
Xây dựng
Hoạt động xây dựng cơ bản năm nay tăng mạnh, trong đó tăng cao nhất ở khu vực có vốn đầu tư nước ngoài do tập trung đẩy nhanh tiến độ đối với các công trình thuộc khu kinh tế trọng điểm quốc gia. Tiến độ xây dựng trong khu vực Nhà nước chậm hơn do ưu tiên cho những công trình chuyển tiếp từ năm trước nên giá trị sản xuất giảm. Đối với các doanh nghiệp ngoài Nhà nước, do gặp khó khăn về vốn nên kết quả tăng thấp.
Giá trị sản xuất xây dựng năm 2013 theo giá hiện hành ước tính đạt 770,4 nghìn tỷ đồng, bao gồm: Khu vực Nhà nước đạt 92,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 12%; khu vực ngoài Nhà nước 644,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 83,6%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 33,7 nghìn tỷ đồng, chiếm 4,4%. Giá trị sản xuất xây dựng năm 2013 chia theo loại công trình như sau: Công trình nhà ở đạt 333,3 nghìn tỷ đồngcông trình nhà không để ở đạt 128,2 nghìn tỷ đồng; công trình kỹ thuật dân dụng đạt 219,4 nghìn tỷ đồng; hoạt động xây dựng chuyên dụng đạt 89,5 nghìn tỷ đồng.
Giá trị sản xuất xây dựng năm 2013 theo giá so sánh 2010 ước tính đạt 626,9 nghìn tỷ đồng, tăng 6,2% so với năm 2012, bao gồm: Khu vực Nhà nước đạt 77,2 nghìn tỷ đồng, giảm 1,4%; khu vực ngoài Nhà nước đạt 521,2 nghìn tỷ đồng, tăng 6,2%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 28,5 nghìn tỷ đồng, tăng 34,3%.
Mặc dù đạt được một số kết quả nhất định nhưng hoạt động của ngành xây dựng trong năm vẫn còn những tồn tại và gặp khó khăn như: Chủ đầu tư thực hiện không đúng quy trình, thủ tục gây chậm chễ trong thanh toán công trình dẫn đến nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ thiếu vốn, không đủ sức cạnh tranh. Tiến độ giải ngân của một số dự án, công trình mặc dù có chuyển biến nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế. Thời tiết diễn biến phức tạp với mưa lớn kéo dài tại nhiều vùng trên cả nước ảnh hưởng đến tiến độ và chất lượng công trình.
Đầu tư phát triển
Trong công tác đầu tư, các ngành và các địa phương tiếp tục thực hiện Chỉ thị 1792/CT-TTg ngày 15 tháng 10 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ với mục tiêu quan trọng là bảo đảm đầu tư công hiệu quả, nhất là nguồn vốn ngân sách Nhà nước và vốn trái phiếu Chính phủ. Do đó, công tác quản lý nhà nước về đầu tư được tăng cường, tập trung vào quản lý tiến độ, chất lượng công trình, thanh quyết toán vốn đầu tư, xử lý nợ đọng xây dựng cơ bản... nên đầu tư khu vực Nhà nước từng bước đạt hiệu quả hơn. Ngay từ đầu năm, nguồn vốn ngân sách và vốn trái phiếu Chính phủ được phân bổ nhanh cho các Bộ, ngành và địa phương đã tạo điều kiện cho chủ đầu tư chủ động triển khai kế hoạch sớm. Đối với các dự án quan trọng, việc huy động mọi nguồn lực nhằm đẩy nhanh tiến độ công trình cũng được các Bộ, ngành và địa phương thực hiện tích cực.
Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2013 theo giá hiện hành ước tính đạt 1091,1 nghìn tỷ đồng, tăng 8% so với năm trước và bằng 30,4% GDP. Trong vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2013, vốn khu vực Nhà nước đạt 440,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 40,4% tổng vốn và tăng 8,4% so với năm trước; khu vực ngoài Nhà nước 410,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 37,6% và tăng 6,6%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 240,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 22%và tăng 9,9%.
Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện
năm 2013 theo giá hiện hành
Nghìn tỷ đồng
Cơ cấu (%)
So với cùng kỳ
năm trước (%)
TỔNG SỐ
1091,1
100,0
108,0
Khu vực Nhà nước
440,5
40,4
108,4
Khu vực ngoài Nhà nước
410,5
37,6
106,6
Khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
240,1
22,0
109,9
Trong vốn đầu tư thực hiện khu vực Nhà nước năm nay, vốn từ ngân sách Nhà nước ước tính đạt 205,7 nghìn tỷ đồng, bằng 101,5% kế hoạch năm và tăng 0,3% so với năm 2012, gồm có:
- Vốn trung ương quản lý đạt 41 nghìn tỷ đồng, bằng 102,2% kế hoạch năm và giảm 18,3% so với năm trước, trong đó vốn đầu tư thực hiện của Bộ Giao thông Vận tải là 7687 tỷ đồng, bằng 122,4% và giảm 1,2%; Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn 4378 tỷ đồng, bằng 100,1% và giảm 8,7%; Bộ Xây dựng 1326 tỷ đồng, bằng 75,3% và giảm 27%; Bộ Y tế 769 tỷ đồng, bằng 89,2% và giảm 28,5%; Bộ Giáo dục và Đào tạo 644 tỷ đồng, bằng 92,4% và giảm 29,8%; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch 491 tỷ đồng, bằng 98,1% và giảm 19,9%; Bộ Công Thương 319 tỷ đồng, bằng 117,4% và giảm 29,9%.
- Vốn địa phương quản lý đạt 164,7 nghìn tỷ đồng, bằng 101,3% kế hoạch năm và tăng 6,3% so với năm 2012. Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước của một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương như sau: Hà Nội đạt 26232 tỷ đồng, bằng 95,3% kế hoạch năm và tăng 26% so với năm 2012; thành phố Hồ Chí Minh 17023 tỷ đồng, bằng 99,3% và tăng 10,3%; Đà Nẵng 5630 tỷ đồng, bằng 74,8% và giảm 29,6%; Thanh Hóa 4014 tỷ đồng, bằng 128% và tăng 1,1%; Quảng Ninh 4010 tỷ đồng, bằng 102,9% và tăng 3,9%; Bình Dương 3878 tỷ đồng, bằng 99,8% và tăng 16,6%; Vĩnh Phúc 3868 tỷ đồng, bằng 129,1% và giảm 3,1%.
Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài từ đầu năm đến thời điểm 15/12/2013 ước tính đạt 21,6 tỷ USD, tăng 54,5% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: 14,3 tỷ USD vốn đăng ký của 1275 dự án được cấp phép mới, tăng 70,5% (Số dự án tăng 0,7%) và 7,3 tỷ USD vốn đăng ký bổ sung của 472 lượt dự án được cấp phép từ các năm trước, tăng 30,8%. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện năm 2013 ước tính đạt 11,5 tỷ USD, tăng 9,9% so với năm 2012.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài năm nay tập trung chủ yếu vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo với 16,6 tỷ USD, chiếm 76,9% tổng vốn đăng ký; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí đạt 2 tỷ USD, chiếm 9,4%; các ngành còn lại đạt 3 tỷ USD, chiếm 13,7%.
Trong năm 2013 cả nước có 50 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài cấp phép mới, trong đó Thái Nguyên có số vốn đăng ký lớn nhất với 3381,1 triệu USD, chiếm 23,7% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Bình Thuận 2029,6 triệu USD, chiếm 14,2%; Hải Phòng 1843,6 triệu USD, chiếm 12,9%; Bình Định 1019,7 triệu USD, chiếm 7,1%; thành phố Hồ Chí Minh 949 triệu USD, chiếm 6,6%; Đồng Nai 745,1 triệu USD, chiếm 5,2%; Bình Dương 714 triệu USD, chiếm 5%; Hải Dương 620,6 triệu USD, chiếm 4,3%...
Trong số 50 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư cấp phép mới vào Việt Nam năm nay, Hàn Quốc là nhà đầu tư lớn nhất với 3752,1 triệu USD, chiếm 26,3% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Xin-ga-po 3014,1 triệu USD, chiếm 21,1%; Trung Quốc 2276,6 triệu USD, chiếm 16%; Nhật Bản 1295 triệu USD, chiếm 9,1%; Liên bang Nga 1021,7 triệu USD, chiếm 7,2%; Đặc khu Hành chính Hồng Công (Trung Quốc) 604 triệu USD, chiếm 4,2%; Đài Loan 400 triệu USD, chiếm 2,8%.
Tài chính, ngân hàng, bảo hiểm
Thu, chi ngân sách Nhà nước [4]
Tổng thu ngân sách Nhà nước năm 2013 ước tính đạt 790,8 nghìn tỷ đồng, bằng 96,9% dự toán năm, trong đó thu nội địa 530nghìn tỷ đồng, bằng 97,2%; thu từ dầu thô 115 nghìn tỷ đồng, bằng 116,2%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu 140,8 nghìn tỷ đồng, bằng 84,6%. Trong thu nội địa, thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước 159,3 nghìn tỷ đồng, bằng 91,4% dự toán năm; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) 111,2 nghìn tỷ đồng, bằng 103,6%; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài Nhà nước 110,2 nghìn tỷ đồng, bằng 91,6%; thu thuế thu nhập cá nhân 45,8 nghìn tỷ đồng, bằng 83,4%; thu thuế bảo vệ môi trường 11,7 nghìn tỷ đồng, bằng 81,5%; thu phí, lệ phí 15,2 nghìn tỷ đồng, bằng 146,5%.
Tổng chi ngân sách Nhà nước năm 2013 ước tính đạt 986,2 nghìn tỷ đồng, bằng 100,8% dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển 201,6 nghìn tỷ đồng, bằng 115,1% (riêng chi đầu tư xây dựng cơ bản 196,3 nghìn tỷ đồng, bằng 115,4%); chi phát triển sự nghiệp kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể (bao gồm cả chi thực hiện cải cách tiền lương) ước tính đạt 679,6 nghìn tỷ đồng, bằng 100,8%; chi trả nợ và viện trợ 105 nghìn tỷ đồng, bằng 100%.
Tỷ lệ bội chi ngân sách Nhà nước năm nay ở mức 5,3% GDP, vượt mức 4,8% đã dự toán. Nguyên nhân chủ yếu do doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn về vốn, sản phẩm tồn kho tiêu thụ chậm dẫn đến thua lỗ. Tuy nhiên không thể không tính đến tình trạng nợ đọng thuế, trốn thuế làm hụt thu và một số khoản chi chưa hợp lý gây lãng phí. Sau nhiều năm vượt thu, đây là năm đầu tiên số thu ngân sách nhà nước cả năm ước tính không đạt dự toán thu cân đối ngân sách, ảnh hưởng lớn tới việc điều hành ngân sách và cân đối, bố trí vốn để thực hiện các nhiệm vụ chi ngân sách nhà nước.
Ngân hàng
Đến ngày 12/12/2013, tổng phương tiện thanh toán tăng 14,64%; huy động vốn tăng 15,61%; tăng trưởng tín dụng tăng 8,83% so với cuối năm 2012 và dự kiến sẽ cao hơn mức tăng của năm 2012 nhưng vẫn thấp hơn mức kế hoạch đặt ra là khoảng 12%; thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại được cải thiện, đảm bảo khả năng thanh toán và chi trả của hệ thống; tỷ giá ngoại tệ ổn định, dự trữ ngoại hối tăng cao.
Mặc dù có những tín hiệu tốt nhưng hoạt động ngân hàng vẫn đối mặt với nhiều thách thức. Tỷ lệ nợ xấu mặc dù có dấu giảm nhưng vẫn ở mức cao; chất lượng tín dụng chưa thực sự được cải thiện; nợ xấu chưa được phân loại và đánh giá đầy đủ, chính xác. Hiệu quả kinh doanh của các tổ chức tín dụng thấp so với các năm trước đây. Chênh lệch thu nhập - chi phí luỹ kế 11 tháng năm 2013 của toàn hệ thống chỉ tăng 3,2% so với cùng kỳ năm 2012. Nguyên nhân chủ yếu do tác động bất lợi của những khó khăn trong nền kinh tế. Chênh lệch giữa lãi suất đầu ra và lãi suất đầu vào giảm, trong khi chi phí trích lập dự phòng rủi ro tăng mạnh do chất lượng tài sản giảm sút.
Bảo hiểm
Trong bối cảnh khó khăn chung của nền kinh tế, thị trường bảo hiểm 11 tháng năm 2013 tuy có tăng chậm lại song vẫn đạt được kết quả nhất định, giúp duy trì và cải thiện năng lực tài chính, hoạt động của các doanh nghiệp. Tổng doanh thu phí bảo hiểm toàn thị trường năm 2013 ước tính đạt 44,4 nghìn tỷ đồng, tăng 7,6% so với năm 2012, trong đó doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ đạt 24 nghìn tỷ đồng, tăng 5%; doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ đạt 20,4 nghìn tỷ đồng, tăng 11%.
Khó khăn kinh tế là nguyên nhân khách quan ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm vì làm giảm tốc độ tăng nhu cầu bảo hiểm của cá nhân và tổ chức trên cả hai lĩnh vực nhân thọ và phi nhân thọ.
Xuất, nhập khẩu
Xuất khẩu hàng hóa
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng Mười Hai ước tính đạt 11,6 tỷ USD, giảm 3,3% so với tháng trước và tăng 12,2% so với cùng kỳ năm 2012. Tính chung cả năm 2013, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu đạt 132,2 tỷ USD, tăng 15,4% so với năm 2012. (Kim ngạch xuất khẩu năm 2011 tăng 34,2%; năm 2012 tăng 18,2%). Trong năm 2013, kim ngạch xuất khẩu khu vực kinh tế trong nước đạt 43,8 tỷ USD, tăng 3,5%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (gồm cả dầu thô) đạt 88,4 tỷ USD, tăng 22,4%. Nếu không kể dầu thô thì kim ngạch hàng hoá xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài năm nay đạt 81,2 tỷ USD, tăng 26,8% so với năm trước. Nếu loại trừ yếu tố giá, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu năm 2013 tăng 18,2%.
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu năm nay tăng cao chủ yếu ở khu vực có vốn đầu tư nước ngoài với các mặt hàng như: Điện tử, máy tính và linh kiện; điện thoại các loại và linh kiện, hàng dệt may, giày dép... Xuất khẩu của khu vực này trong những năm gần đây có xu hướng tăng mạnh và chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu: Năm 2011 chiếm 56,9% và tăng 41%; năm 2012 chiếm 63,1% và tăng 31,1%; năm 2013 chiếm 61,4% và tăng 22,4%.
Trong năm 2013, nhiều sản phẩm thuộc nhóm hàng công nghiệp có kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh như: Điện thoại và linh kiện đạt 21,5 tỷ USD, tăng 69,2%; hàng dệt, may đạt 17,9 tỷ USD, tăng 18,6%; điện tử máy tính và linh kiện đạt 10,7 tỷ USD, tăng 36,2%; giày dép đạt 8,4 tỷ USD, tăng 15,2%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 5,5 tỷ USD, tăng 17,8%; túi xách, ví, va li, mũ, ô dù đạt 1,9 tỷ USD, tăng 27,6%; hóa chất tăng 32,4%; rau quả tăng 25,7%; hạt điều tăng 12,9%; hạt tiêu tăng 13,4%. Một số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng khá là: Thủy sản đạt 6,7 tỷ USD, tăng 10,6%; máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác đạt 6 tỷ USD, tăng 9%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 4,9 tỷ USD, tăng 7,8%; sắt thép đạt 1,8 tỷ USD, tăng 8%; dây điện và dây cáp đạt 0,7 tỷ USD, tăng 10%; sản phẩm hóa chất đạt 0,7 tỷ USD, tăng 5,2%. Kim ngạch xuất khẩu dầu thô, gạo, cà phê, cao su, than đá và xăng dầu giảm so với năm 2012, trong đó dầu thô đạt 7,2 tỷ USD, giảm 11,9%; gạo đạt 3 tỷ USD, giảm 18,7%; cà phê đạt 2,7 tỷ USD, giảm 26,6%; cao su đạt 2,5 tỷ USD, giảm 11,7%; xăng dầu đạt 1,2 tỷ USD, giảm 32,8%.
Cơ cấu kim ngạch hàng hóa xuất khẩu năm nay: Tỷ trọng nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản đạt 58,6 tỷ USD, tăng 21,5% và chiếm 44,3% (Năm 2012 đạt 48,2 tỷ USD và chiếm 42,1%). Nhóm công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp đạt 50,3 tỷ USD, tăng 16,3% và chiếm 38,1% (Năm 2012 đạt 43,3 tỷ USD và chiếm 37,8%). Nhóm hàng nông, lâm sản đạt 16,5 tỷ USD, giảm 1,9% và chiếm 12,5% (Năm 2012 đạt 16,8 tỷ USD và chiếm 14,7%). Nhóm hàng thuỷ sản đạt 6,7 tỷ USD, tăng 10,6% và chiếm 5,1% (Năm 2012 đạt 6,1 tỷ USD và chiếm 5,3%).
Về thị trường, EU tiếp tục là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch xuất khẩu năm 2013 ước đạt 24,4 tỷ USD tăng 20,4 % (tương đương 4,1 tỷ USD) so với năm 2012, kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng tăng so với năm 2012 như: Điện thoại các loại và linh kiện tăng 56% (2,75 tỷ USD); giầy dép tăng 10,5% (245 triệu USD); hàng dệt may tăng 11,2% (243 triệu USD). Hoa Kỳ đứng thứ 2 với kim ngạch xuất khẩu ước tính đạt 23,7 tỷ USD, tăng 20,3% (4 tỷ USD), kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng tăng như: Hàng dệt may tăng 14% (973 triệu USD); giầy dép tăng 16,9% (340 triệu USD); gỗ và các sản phẩm gỗ tăng 10,3% (167 triệu USD). Tiếp đến là ASEAN đạt 18,5 tỷ USD, tăng 6,3% (1,1 tỷ USD) với các mặt hàng chủ yếu: Điện thoại các loại và linh kiện tăng 75,2% (992 triệu USD); máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện tăng 30,7% (414 triệu USD). Nhật Bản ước tính đạt 13,6 tỷ USD, tăng 3,8% (496 triệu USD). Hàn Quốc 6,7 tỷ USD, tăng 19,9% (1,1 tỷ USD).Trung Quốc đạt 13,1 tỷ USD, tăng 2,1% (269 triệu USD).
Nhập khẩu hàng hóa
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng Mười Hai ước tính đạt 11,5 tỷ USD, tăng 4,7% so với tháng trước và tăng 16,8% so với cùng kỳ năm 2012. Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu năm 2013 đạt 131,3 tỷ USD, tăng 15,4% so với năm trước (Kim ngạch nhập khẩu năm 2011 tăng 25,8%; năm 2012 tăng 6,6%). Trong năm 2013, kim ngạch nhập khẩu khu vực kinh tế trong nước đạt 56,8 tỷ USD, tăng 5,6%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 74,5 tỷ USD, tăng 24,2%. Nếu loại trừ yếu tố giá, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu năm 2013 tăng 18,3% so với năm 2012.
Cũng như hoạt động xuất khẩu, hoạt động nhập khẩu khu vực có vốn đầu tư nước ngoài những năm gần đây có xu hướng tăng mạnh và kim ngạch chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch nhập khẩu: Năm 2011 nhập khẩu của khu vực này chiếm 45,7% và tăng 32,1%; năm 2012 chiếm 52,7% và tăng 22,7%; năm 2013 chiếm 56,7% và tăng 24,2%.
Về mặt hàng nhập khẩu năm nay, kim ngạch một số mặt hàng tăng cao so với cùng kỳ năm trước là: Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác đạt 18,6 tỷ USD, tăng 16%; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 17,7 tỷ USD, tăng 34,9%; vải đạt 8,4 tỷ USD, tăng 19,4%; điện thoại các loại và linh kiện đạt 8 tỷ USD, tăng 59,5%; chất dẻo đạt 5,7 tỷ USD, tăng 18,9%; nguyên phụ liệu dệt may, giày dép đạt 3,7 tỷ USD, tăng 18,7%; thức ăn gia súc và nguyên phụ liệu đạt 3 tỷ USD, tăng 23,6%. Một số mặt hàng nguyên liệu tăng khá như: sắt thép đạt 6,7 tỷ USD, tăng 11,5%; hóa chất 3 tỷ USD, tăng 6,7%; kim loại thườngđạt 2,9 tỷ USD, tăng 11,1%; sợi dệt đạt 1,5 tỷ USD, tăng 7,5%; thuốc trừ sâu đạt 0,8 tỷ USD, tăng 12,1%; thủy sản đạt 0,7 tỷ USD, tăng 6,7%. Một số mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu cả năm tăng thấp hoặc giảm là: Tân dược đạt 1,8 tỷ USD, tăng 3,2%, xăng dầu đạt 7 tỷ USD, giảm 22,1%; phân bón đạt 1,7 tỷ USD, giảm 1,6%; phương tiện vận tải khác và phụ tùng đạt 1,3 tỷ USD, giảm 24,8%; cao su đạt 0,7 tỷ USD, giảm 13,9%.
Nguyên liệu đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu của nước ta vẫn còn phụ thuộc khá nhiều vào nguồn nguyên liệu nhập từ nước ngoài do ngành công nghiệp phụ trợ còn quá yếu. Tỷ trọng giá trị nhập khẩu các mặt hàng phục vụ hoạt động gia công lắp ráp chiếm tỷ trọng khá cao trong kim ngạch xuất khẩu hàng hóa: Kim ngạch nhập khẩu điện thoại các loại và linh kiện (trừ điện thoại di động) chiếm 33,3% kim ngạch xuất khẩu điện thoại các loại và linh kiện; kim ngạch nhập khẩu vải chiếm 48,3% giá trị xuất khẩu hàng dệt may…
Về thị trường, Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch nhập khẩu từ thị trường này năm 2013 ước tính đạt 36,8 tỷ USD, tăng 26,7% (tương đương 7,8 tỷ USD), đây là thị trường nhập siêu lớn nhất của Việt Nam với mức 23,7 tỷ USD. Kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng từ Trung Quốc tăng so với năm 2012: Máy móc thiết bị dụng cụ và phụ tùng tăng 25,5% (1,2 tỷ USD); điện thoại các loại và linh kiện tăng 73,6% (2,3 tỷ USD); máy vi tinh sản phẩm điện từ và linh kiện tăng 36,8% (1,1 tỷ USD). Thị trường ASEAN ước tính đạt 21,4 tỷ USD, tăng 2,8% (589 triệu USD) với kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng tăng như: Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện tăng 56,3% (1,2 tỷ USD); máy móc thiết bị và phụ tùng tăng 7,9% (16,9 tỷ USD). Kim ngạch nhập khẩu từ Hàn Quốc ước tính đạt 20,8 tỷ USD, tăng 34,1% (5,3 tỷ USD) với các sản phẩm chủ yếu như: Máy vi tính tăng 60,3% (1,8 tỷ USD); máy móc thiết bị dụng cụ và phụ tùng tăng 62,8% (993 triệu USD); điện thoại các loại và linh kiện tăng 78,2% (918 triệu USD). Thị trường Nhật Bản ước tính đạt 11,6 tỷ USD, giảm 0,18% (21 triệu USD). Thị trường EU ước tính đạt 9,2 tỷ USD, tăng 4,2% (373 triệu USD). Hoa Kỳ đạt 5,1 tỷ USD, tăng 6,1% (296 triệu USD).
Cơ cấu kim ngạch hàng hóa nhập khẩu năm nay cũng có sự thay đổi so với năm 2012, nhóm tư liệu sản xuất ước tính đạt 131,3 tỷ USD, chiếm tỷ trọng cao nhất với 92%, tăng so với mức 90,9% của năm 2012, chủ yếu do tỷ trọng nhóm hàng máy, móc thiết bị, dụng cụ, phương tiện vận tải chiếm 36,7%, tăng so với mức 35,3%; phụ tùng và nhiên vật liệu chiếm 55,3%, giảm so với mức 55,6% của năm 2012. Nhóm hàng tiêu dùng đạt 10,5 tỷ USD, chiếm 8%, giảm so với mức 9% của năm 2012.
Trong mười một tháng năm nay, xuất siêu hàng hóa thực hiện là 763 triệu USD. Tháng Mười Hai xuất siêu ước tính 100 triệu USD. Tính chung cả năm 2013, xuất siêu 863 triệu USD, bằng 0,7% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu, trong đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 13,1 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài xuất siêu gần 14 tỷ USD. Như vậy xuất siêu năm nay hoàn toàn thuộc về khu vực đầu tư nước ngoài. Mặc dù xuất khẩu khu vực này phát triển mạnh là điều kiện thuận lợi để giải quyết việc làm cho người lao động nhưng hiệu quả mang lại cho tăng trưởng kinh tế không cao do chủ yếu xuất khẩu các mặt hàng gia công, lắp ráp với giá trị gia tăng thấp.
Xuất, nhập khẩu dịch vụ
Kim ngạch xuất khẩu dịch vụ năm 2013 ước tính đạt 10,5 tỷ USD, tăng 9,1% so với năm 2012, trong đó dịch vụ du lịch đạt 7,5 tỷ USD, tăng 9,9%; dịch vụ vận tải 2,2 tỷ USD, tăng 5,8%. Kim ngạch nhập khẩu dịch vụ năm 2013 ước tính đạt 13,2 tỷ USD, tăng 5,4% so với năm 2012, trong đó dịch vụ vận tải đạt 9,1 tỷ USD, tăng 4,6%; dịch vụ du lịch đạt 2 tỷ USD, tăng 10,5%. Nhập siêu dịch vụ năm 2013 là 2,7 tỷ USD, giảm 12,9% so với năm 2012 và bằng 25,7% tổng kim ngạch xuất khẩu dịch vụ năm 2012.
Chỉ số giá
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2013 tăng 0,51% so với tháng trước và tăng 6,04% so với tháng 12/2012. Đây là năm có chỉ số giá tiêu dùng tăng thấp nhất trong 10 năm trở lại đây [5].Chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm 2013 tăng 6,6% so với bình quân năm 2012, thấp hơn nhiều so với mức tăng 9,21% của năm 2012. Trong năm nay, CPI tăng cao vào quý I và quý III với mức tăng bình quân tháng là 0,8%; quý II và quý IV, CPI tương đối ổn định và tăng ở mức thấp với mức tăng bình quân tháng là 0,4%. Trong các nhóm hàng hóa và dịch vụ, nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng có chỉ số giá tháng 12/2013 so với tháng trước tăng cao nhất với mức tăng 2,31%; may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,57%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,49% (Lương thực tăng 1,22%; thực phẩm tăng 0,38%; ăn uống ngoài gia đình tăng 0,17%); đồ uống và thuốc lá tăng 0,27%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,25%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,13%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,08% (Dịch vụ y tế tăng 0,02%); giáo dục tăng 0,02%. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ còn lại có chỉ số giá giảm gồm: Giao thông giảm 0,23%; bưu chính viễn thông giảm 0,01%.
Chỉ số giá tiêu dùng năm nay tăng do một số nguyên nhân chủ yếu sau:
(1) Giá một số mặt hàng và dịch vụ do Nhà nước quản lý được điều chỉnh theo kế hoạch và theo cơ chế thị trường: Trong năm có 17 tỉnh, thành phố điều chỉnh giá dịch vụ y tế làm cho CPI của nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 18,97% so với tháng 12 năm trước, đóng góp vào chỉ số chung cả nước gần 1,1%; các địa phương tiếp tục thực hiện lộ trình tăng học phí làm làm CPI nhóm giáo dục tăng 11,71%, đóng góp vào chỉ số chung cả nước tăng khoảng gần 0,7%; giá xăng dầu được điều chỉnh tăng/giảm và cả năm tăng 2,18%, góp vào CPI chung cả nước mức tăng 0,08%; giá điện điều chỉnh tăng 10%, đóng góp vào CPI chung khoảng 0,25%. Bên cạnh đó, giá gas cả năm tăng gần 5%, đóng góp vào CPI cả nước với mức tăng 0,08%; (2) Nhu cầu hàng hóa tiêu dùng của dân cư và tiêu dùng cho sản xuất tăng vào dịp cuối năm; (3) Ảnh hưởng của thiên tai, mưa bão; (4) Mức cầu trong dân yếu.
Chỉ số giá vàng và đô la Mỹ
Chỉ số giá vàng tháng 12/2013 giảm 3,33% so với tháng trước; giảm 24,36% so với cùng kỳ năm 2012. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 12/2013 tăng 0,05% so với tháng trước; tăng 1,09% so với cùng kỳ năm 2012.
Chỉ số giá sản xuất
Chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất hàng nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2013 tăng0,57% so với năm trước, trong đó chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất hàng nông nghiệp giảm 0,59%; hàng lâm nghiệp tăng 8,85%; hàng thủy sản tăng 3,66%.
Chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất hàng công nghiệp năm nay tăng 5,25% so với năm trước, trong đó chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất sản phẩm khai khoáng tăng 6,68%; sản phẩm công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 3,4%; điện và phân phối điện tăng 9,2%; nước tăng 11,62%. Một số yếu tố chính ảnh hưởng làm chỉ số giá sản xuất hàng công nghiệp tăng là: Giá than trong nước và giá điện được điều chỉnh tăng;lương của khu vực doanh nghiệp tăng từ đầu năm; giá gỗ thế giới tăng cao dẫn đến giá gỗ nguyên liệu nhập khẩu tăng.
Chỉ số giá nguyên, nhiên, vật liệu dùng cho sản xuất năm 2013 tăng 3,05% so với năm 2012, trong đó chỉ số giá nguyên, nhiên, vật liệu dùng cho sản xuất của một số ngành tăng cao là: Khai khoáng tăng 9,63%; nước cung cấp và xử lý rác thải, nước thải tăng 8,45%; sản phẩm từ cao su, khoáng phi kim loại tăng 6,16%; dệt, trang phục, da và các sản phẩm có liên quan tăng 5,72%; thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 5,58%; máy móc thiết bị chưa phân được vào đâu tăng 5,46%.
Chỉ số giá cước vận tải năm 2013 tăng 6,48% so với năm trước, trong đó giá cước vận tải hành khách tăng 7,38%; vận tải hàng hóa tăng 4,91%. Chỉ số giá cước dịch vụ vận tải đường sắt năm 2013 tăng 8,23% so với năm 2012; dịch vụ vận tải đường bộ và xe buýt tăng 8,84%; dịch vụ vận tải đường thủy tăng 2,55%; dịch vụ vận tải đường hàng không tăng 3,45%. Chỉ số giá cước vận tải quý IV năm nay tăng 0,26% so với quý trước và là quý có chỉ số giá tăng thấp nhất do giá xăng giảm vào tháng Mười và tháng Mười Một.
Chỉ số giá xuất, nhập khẩu hàng hóa
Chỉ số giá xuất khẩu hàng hoá năm 2013 giảm 2,41% so với năm trước (Năm 2012 giảm 0,54% so với năm 2011), trong đó chỉ số giá xuất khẩu của một số mặt hàng giảm mạnh là: Cao su giảm 18,96%; than giảm 15,68%; sản phẩm từ cao su giảm 14,13%. Trong năm 2013, kinh tế thế giới vẫn chưa thoát khỏi khủng hoảng khiến nhu cầu tiêu thụ một số loại hàng hóa cơ bản giảm và sự cạnh tranh mạnh mẽ từ các đối tác xuất khẩu là những nguyên nhân chủ yếu khiến chỉ số giá xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam giảm năm thứ 2 liên tiếp.
Chỉ số giá nhập khẩu hàng hoá năm nay giảm 2,36% so với năm trước (Năm 2012 giảm 0,33% so với 2011), trong đó chỉ số giá nhập khẩu của một số mặt hàng giảm nhiều là: Cao su giảm 21,15%; phân bón giảm 17,83%; sắt thép giảm 10,48%.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI
Dân số, lao động và việc làm
Dân số
Dân số trung bình cả nước năm 2013 ước tính 89,71 triệu người, tăng 1,05% so với năm 2012, bao gồm: Dân số nam 44,38 triệu người, chiếm 49,47% tổng dân số cả nước, tăng 1,08%; dân số nữ 45,33 triệu người, chiếm 50,53%, tăng 1,03%. Trong tổng dân số cả nước năm nay, dân số khu vực thành thị là 29,03 triệu người, chiếm 32,36% tổng dân số, tăng 2,38% so với năm trước; dân số khu vực nông thôn là 60,68 triệu người, chiếm 67,64%, tăng 0,43%.
Tổng tỷ suất sinh năm 2013 đạt 2,10 con/phụ nữ, tăng so với mức 2,05 con/phụ nữ của năm 2012. Tỷ số giới tính của dân số đạt 97,91 nam/100 nữ, tăng so với mức 97,86 nam/100 nữ của năm 2012. Tỷ suất sinh thô đạt 17,05 trẻ sinh ra sống trên 1000 người dân. Tỷ số giới tính của trẻ em mới sinh duy trì ở mức khá cao với 113,8 bé trai/100 bé gái, tăng so với mức 112,3 bé trai/100 bé gái của năm 2012. Tỷ suất chết thô năm 2013 là 7‰; tỷ suất chết của trẻ em dưới 1 tuổi là 15,3‰; tỷ suất chết của trẻ em dưới 5 tuổi là 23,0‰. Tỷ suất chết tiếp tục ở mức thấp, thể hiện rõ hiệu quả của chương trình chăm sóc sức khoẻ bà mẹ và trẻ em nói riêng và công tác bảo vệ sức khoẻ, nâng cao mức sống cho người dân nói chung trong năm qua.
Theo kết quả điều tra trong năm, tỷ lệ phụ nữ từ 15-49 tuổi sinh con thứ ba trở lên của năm 2013 là 14,3%, tăng nhẹ so với mức 14,2% của năm 2012; tỷ lệ phụ nữ 15-49 tuổi có chồng đang sử dụng biện pháp tránh thai đạt 77,2%, trong đó sử dụng biện pháp hiện đại là 67,0%; biện pháp khác là 10,2%.
Lao động, việc làm
Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên ước tính đến 01/01/2014 là 53,65 triệu người, tăng 864,3 nghìn người so với cùng thời điểm năm trước, trong đó lao động nam chiếm 51,5%; lao động nữ chiếm 48,5%. Lực lượng lao động trong độ tuổi lao động ước tính đến 01/01/2014 là 47,49 triệu người, tăng 409,2 nghìn người so với cùng thời điểm năm 2013, trong đó nam chiếm 53,9%; nữ chiếm 46,1%. Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong các ngành kinh tế năm 2013 ước tính 52,40 triệu người, tăng 1,36% so với năm 2012. Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc năm 2013 của khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 46,9% tổng số, giảm 0,5 điểm phần trăm so với năm trước; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 21,1%, giảm 0,1 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ chiếm 32,0%, tăng 0,6 điểm phần trăm.
Tỷ lệ lao động phi chính thức trong tổng số lao động 15 tuổi trở lên đang làm việc năm 2013 ước tính 34,2%, trong đó khu vực thành thị là 47,4%; khu vực nông thôn 28,6% (Năm 2012 các tỷ lệ tương ứng là: 33,7%; 46,8% và 28%).
Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi năm 2013 ước tính là 2,2%, trong đó khu vực thành thị là 3,58%; khu vực nông thôn là 1,58% (Số liệu của năm 2012 tương ứng là: 1,96%; 3,21%; 1,39%). Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi năm 2013 ước tính 2,77%, trong đó khu vực thành thị là 1,48%; khu vực nông thôn là 3,35% (Số liệu của năm 2012 tương ứng là: 2,74%; 1,56%; 3,27%).
Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên trong độ tuổi 15-24 năm 2013 ước tính 6,36%, trong đó khu vực thành thị là 11,11%, tăng 1,94 điểm phần trăm so với năm trước; khu vực nông thôn là 4,87%, tăng 0,62 điểm phần trăm. Tỷ lệ thất nghiệp của lao động từ 25 tuổi trở lên năm 2013 ước tính 1,21%, trong đó khu vực thành thị là 2,29%, tăng 0,19 điểm phần trăm so với năm trước; khu vực nông thôn là 0,72%, tăng 0,06 điểm phần trăm. Nhìn chung, tỷ lệ thất nghiệp có xu hướng tăng lên do sản xuất vẫn gặp khó khăn làm ảnh hưởng đến việc làm của người lao động.
Đời sống dân cư và bảo đảm an sinh xã hội
Công tác an sinh xã hội và giảm nghèo trong năm qua được Đảng, Nhà nước và Chính phủ tập trung quan tâm, chỉ đạo các cấp, các ngành thực hiện nên đời sống dân cư nhìn chung tương đối ổn định. Thực hiện Nghị định số 103/2012/NĐ-CP ngày 04/12/2012 của Chính phủ về việc quy định mức lương tối thiểu đối với người lao động và Nghị định số 66/2013/NĐ-CP ngày 27/6/2013 của Chính phủ về việc tăng mức lương tối thiểu đối với khu vực Nhà nước, đời sống người làm công ăn lương được cải thiện hơn.
Ở khu vực nông thôn, trong năm cả nước có 426,7 nghìn lượt hộ thiếu đói, giảm 5,2% so với năm 2012, tương ứng với 1794 nghìn lượt nhân khẩu thiếu đói, giảm 6,2%. Tình trạng thiếu đói xảy ra chủ yếu ở các tỉnh thuộc vùng Trung du và miền núi phía Bắc; vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung; vùng Tây Nguyên. Để khắc phục tình trạng thiếu đói, từ đầu năm các cấp, các ngành và địa phương đã hỗ trợ các hộ thiếu đói 45,3 nghìn tấn lương thực và 24 tỷ đồng. Tỷ lệ hộ nghèo cả nước năm 2013 ước tính 9,9%, giảm 1,2 điểm phần trăm so với năm 2012.
Tổng số tiền mặt và hiện vật dành cho công tác an sinh xã hội và giảm nghèo, cứu đói năm 2013 là 2929 tỷ đồng, trong đó quà thăm hỏi và hỗ trợ các đối tượng chính sách là 1378 tỷ đồng; thăm hỏi và hỗ trợ các hộ nghèo 1085 tỷ đồng; cứu đói và cứu trợ xã hội 466 tỷ đồng. Cũng trong năm 2013 cả nước có trên 7,4 triệu sổ, thẻ bảo hiểm y tế, giấy khám chữa bệnh được phát miễn phí cho các đối tượng chính sách tại các địa phương.
Giáo dục, đào tạo
Tính đến cuối năm 2013, cả nước có 61/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, trong đó 04 tỉnh/thành phố được công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi mức độ 2 (Năm 2012 là 03 tỉnh). Tình trạng học sinh bỏ học trong năm học 2012 - 2013 đã giảm so với năm học trước, cả nước có 8,9 nghìn học sinh tiểu học bỏ học, giảm 0,1% so với năm trước; 44 nghìn học sinh trung học cơ sở bỏ học, giảm 0,3% và gần 42 nghìn học sinh trung học phổ thông bỏ học, giảm 0,2%.
Ngành giáo dục, đào tạo năm 2013 tiếp tục nhận được sự quan tâm đầu tư phát triển. Tổng chi ngân sách Nhà nước cho giáo dục và đào tạo trong năm là 194,4 nghìn tỷ đồng, tăng 14,1% so với năm 2012, trong đó chi thường xuyên cho giáo dục và đào tạo là 164,4 nghìn tỷ đồng, tăng 17,3%; chi cho xây dựng cơ bản là 30 nghìn tỷ đồng, tương đương mức chi năm trước.
Tình hình dịch bệnh, ngộ độc thực phẩm
Trong năm 2013, cả nước có 67,8 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (40 trường hợp tử vong); 810 trường hợp mắc bệnh viêm não virút (17 trường hợp tử vong); 656 trường hợp mắc bệnh thương hàn; 39 trường hợp mắc viêm màng não do não mô cầu (03 trường hợp tử vong); 76,5 nghìn trường hợp mắc dịch chân, tay, miệng (20 trường hợp tử vong); 18 trường hợp mắc hội chứng viêm da dày sừng bàn tay, bàn chân; 02 trường hợp mắc cúm A (H5N1), 01 trường hợp tử vong; tổng số người nhiễm HIV hiện còn sống của cả nước tính đến ngày 17/12/2013 là 215,7 nghìn người, trong đó 64,6 nghìn trường hợp đã chuyển sang giai đoạn AIDS. Số người tử vong do AIDS cả nước tính đến thời điểm trên là 68,5 nghìn người. Trong năm, trên địa bàn cả nước xảy ra 139 vụ ngộ độc thực phẩm nghiêm trọng làm 4,7 nghìn người bị ngộ độc, trong đó 26 trường hợp tử vong.
Hoạt động thể thao
Phong trào thể thao quần chúng tiếp tục phát triển mạnh cả về quy mô, nội dung và hình thức. Trong năm nay, ngành văn hóa đã nỗ lực thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị và kế hoạch công tác. Nhiều hoạt động văn hóa mang ý nghĩa lớn phục vụ các ngày lễ lớn của dân tộc được tổ chức sôi nổi với nội dung phong phú. Nhiều đợt phim, tuần phim, chương trình nghệ thuật và các hoạt động triển lãm có nội dung sâu sắc nhằm quảng bá con người, đất nước Việt Nam được tổ chức tại các thành phố lớn. Công tác bảo vệ và phát huy di sản văn hoá dân tộc tiếp tục được duy trì và đẩy mạnh.
Trong hoạt động thể thao thành tích cao, ngành Thể dục Thể thao tổ chức thành công 187 giải thể thao trong nước và quốc tế; mở 24 lớp tập huấn, bồi dưỡng huấn luyện viên, trọng tài; cử 157 đoàn và đội tuyển tham dự các giải thể thao quốc tế và cử 52 đội, đoàn đi tập huấn ở nước ngoài. Để chuẩn bị cho các giải đấu lớn, ngành đang xây dựng đề án đào tạo vận động viên và triệu tập 61 đội tuyển, đội tuyển trẻ các môn thể thao tập huấn tại các Trung tâm Huấn luyện Thể thao. Trong năm 2013, thể thao Việt Nam đạt được những thành tích cao tại một số giải thể thao quốc tế như: Tại Đại hội Thể thao trong nhà và Võ thuật Châu Á lần thứ 4 tại Hàn Quốc, đoàn Việt Nam giành 8 huy chương vàng, 7 huy chương bạc và 12 huy chương đồng, đứng thứ 3/44 đoàn tham dự. Tại Đại hội thể thao thế giới tổ chức ở Colombia, đoàn Việt Nam giành 2 huy chương vàng, 3 huy chương bạc, đứng thứ 32/120 đoàn tham dự. Tại Đại hội Thể thao Trẻ Châu Á lần thứ 2 tổ chức ở Trung Quốc, đoàn Việt Nam giành 5 huy chương vàng, 4 huy chương bạc và 2 huy chương đồng, đứng thứ 7/45 đoàn tham dự. Đặc biệt, tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á lần thứ 27 năm 2013 (Sea Games 27) tổ chức tại Mi-an- ma, đoàn thể thao Việt Nam thi đấu thành công và đạt vị trí cao. Tính đến hết ngày 21/12/2013 Việt Nam giành được 73 huy chương vàng; 85 huy chương bạc và 87 huy chương đồng, xếp thứ 3 toàn đoàn.
Tai nạn giao thông
Tính từ 16/11/2012 đến 15/11/2013, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 31,3 nghìn vụ tai nạn giao thông, bao gồm các vụ va chạm và ít nghiêm trọng trở lên, làm chết 9,9 nghìn người và làm bị thương 32,2 nghìn người. So với năm 2012, số vụ tai nạn giao thông giảm 13,8%, số người chết tăng 0,1% và số người bị thương giảm 15,5%. Riêng tai nạn giao thông đường bộ là 30,9 nghìn vụ, làm chết 9,6 nghìn người và làm bị thương 31,9 nghìn người.
Thiệt hại do thiên tai
Trong năm qua, nước ta chịu ảnh hưởng của 15 cơn bão với cường độ mạnh và diễn biến phức tạp, đặc biệt tình trạng mưa, lũ sau bão đã gây thiệt hại nặng về người và tài sản cho nhiều tỉnh và thành phố. Theo báo cáo sơ bộ của các địa phương, thiên tai đã làm 313 người chết và mất tích; 1150người bị thương; 6401 ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi; trên 692 nghìn ngôi nhà bị ngập nước, hư hỏng; 88,2 km đê, kè và 894km đường giao thông cơ giới bị vỡ, sạt lở; gần 8 nghìn cột điện gãy, đổ; hơn 17nghìn ha lúa và 20 nghìn ha hoa màu bị mất trắng; gần 117 nghìn ha lúa và 154 nghìn ha hoa màu bị ngập, hư hỏng. Các địa phương có số người bị chết và mất tích nhiều do thiên tai là: Quảng Bình 46 người; Nghệ An 29 người; Lào Cai 23 người; Quảng Ngãi 22 người; Bình Định 22 người. Trong đó Quảng Bình là địa phương bị thiệt hại nặng nhất về tài sản với gần 204 nghìn ngôi nhà bị sập đổ, hư hỏng; trên 2 nghìn ha hoa màu bị mất trắng; hơn 4 nghìn ha lúa, hoa màu bị ngập, hư hỏng. Tổng giá trị thiệt hại do thiên tai gây ra trong năm 2013 ước tính gần 30 nghìn tỷ đồng (Gấp trên 2 lần năm 2012), trong đó Quảng Bình thiệt hại khoảng 12,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 41,6% tổng giá trị thiệt hại của cả nước. Theo báo cáo sơ bộ, tổng số tiền mặt cứu trợ các địa phương bị ảnh hưởng thiên tai trong năm là gần 795 tỷ đồng và khoảng 20 tấn lương thực.
Tình hình cháy, nổ và bảo vệ môi trường
Tình trạng cháy, nổ trên địa bàn cả nước có xu hướng gia tăng trong thời gian gần đây gây thiệt hại lớn về người và tài sản. Trong năm 2013 (Từ 15/11/2012 đến 15/11/2013), trên địa bàn cả nước đã xảy ra 2,5 nghìn vụ cháy, 65 vụ nổ nghiêm trọng, làm 127 người chết và 339 người bị thương. Tổng giá trị thiệt hại do cháy, nổ ước tính 1,6 nghìn tỷ đồng. Đáng chú ý là vụ nổ tại nhà máy pháo hoa ở Phú Thọ, làm chết và bị thương hàng trăm người, gây thiệt hại hàng tỷ đồng.
Trong năm 2013, các cơ quan chức năng đã phát hiện 9,4 nghìn vụ vi phạm quy định về vệ sinh môi trường, trong đó 5,2 nghìn vụ bị xử lý với tổng số tiền phạt gần 52 tỷ đồng.
Khái quát lại: Điểm sáng của bức tranh kinh tế-xã hội nước ta năm 2013 là: Kinh tế vĩ mô cơ bản giữ ổn định. Lạm phát được kiểm soát ở mức thấp. Sản xuất công nghiệp có dấu hiệu phục hồi dần, nhất là ngành công nghiệp chế biến, chế tạo. Xuất khẩu tăng nhanh, cân đối thương mại theo hướng tích cực. Tăng trưởng tín dụng vào những tháng cuối năm có những cải thiện rõ rệt. Thu hút đầu tư nước ngoài có nhiều chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, năm qua kinh tế - xã hội nước ta vẫn còn những bất cập và đây là khó khăn, thách thức chúng ta tiếp tục phải đối mặt trong năm 2014: Lạm phát ở mức an toàn nhưng còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ. Cân đối ngân sách tiếp tục gặp khó khăn trong điều kiện tốc độ phục hồi của sản xuất kinh doanh trong nước còn chậm. Sức cầu của nền kinh tế yếu. Khả năng hấp thụ vốn của doanh nghiệp thấp. Hàng tồn kho tuy giảm nhưng vẫn ở mức cao. Xuất khẩu mặc dù có nhiều cải thiện nhưng ưu thế thuộc về khu vực có vốn đầu tư nước ngoài với những mặt hàng gia công là chủ yếu, giá trị gia tăng thấp. Tốc độ cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước diễn ra chậm. Năng lực quản lý, điều hành sản xuất của nhiều doanh nghiệp còn yếu dẫn đến hiệu quả sản xuất thấp hoặc thua lỗ khi phải đương đầu với khó khăn, thử thách. Để từng bước vượt qua những khó khăn, thách thức, thực hiện tốt mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2014, các ngành, các cấp, các địa phương cần làm tốt những nội dung chủ yếu sau:
Một là, đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu kinh tếgắn với đổi mới mô hình tăng trưởng. Nâng cao năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Cần xây dựng và triển khai cơ chế điều hành và phối hợp chung của toàn bộ hệ thống chính trị nhằm đẩy nhanh tiến độ và hiệu quả của quá trình tái cơ cấu. Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, bao gồm khó khăn từ thủ tục đầu tư, đến triển khai dự án, giải phóng mặt bằng, tiêu thụ và xuất khẩu hàng hóa... Tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp cận dòng vốn tín dụng để thúc đẩy sản xuất, kinh doanh. Nhanh chóng triển khai hiệu quả quỹ hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. Các văn bản về thuế phải thống nhất và phù hợp, không trái với luật và các văn bản khác có liên quan để không ảnh hưởng đến doanh nghiệp.
Hai là, tích cực và chú trọng giải quyết vấn đề nợ xấu để tạo điều kiện hạ thấp lãi suất một cách ổn định, đồng thời không làm gia tăng lạm phát. Tăng tín dụng phải đồng thời với thực hiện phân bổ vốn hợp lý theo hướng ưu tiên cho lĩnh vực kinh doanh hiệu quả, góp phần giảm hàng tồn kho và giải quyết nợ xấu. Tránh hiện tượng cho các doanh nghiệp vay vốn để đầu cơ vào các lĩnh vực kém hiệu quả và nguy cơ đối mặt với nhiều rủi ro. Mặc dù Công ty quản lý tài sản Việt Nam để xử lý nợ xấu khu vực ngân hàng được thành lập nhưng quy mô và cách thức xử lý nợ xấu chưa rõ ràng, do đó cần cải thiện khuôn khổ pháp lý và bảo đảm đủ nguồn vốn để xử lý.
Ba là, thúc đẩy phát triển thị trường trong nước và tiếp tục khai thác tìm kiếm mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hóa mang lại hiệu quả cao cho nền kinh tế. Trong những năm tới, cần xác định đầy đủ thách thức và lợi thế khi Việt Nam gia nhập Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) để từ đó tập trung đầu tư phát triển mạnh những mặt hàng có lợi thế cạnh tranh với thuế suất giảm sâu như: Sản phẩm dệt may, da giày, đồ gỗ, nông sản. Bên cạnh đó, trước thách thức của việc nước ta nhập khẩu tỷ lệ lớn nguyên liệu và máy móc từ các nước, trong đó có Trung Quốc và các đối tác không phải là thành viên TPP để sản xuất các mặt hàng xuất khẩu thì việc phát triển nhanh những ngành công nghiệp phụ trợ và củng cố hạ tầng để giảm thiểu thách thức đối với Việt Nam là việc làm cấp bách.
Bốn là, thực hiện nghiêm Chỉ thị số 30/CT-TTg ngày 26 tháng 11 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc thực hành tiết kiệm chống lãng phí. Theo đó, các cơ quan quản lý cần kiểm tra và rà soát kỹ các quy định, văn bản trước khi ban hành để tránh có lỗ hổng làm thất thu, làm lọt thuế. Bên cạnh đó, phải tăng cường kiểm tra, giám sát để kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm đối với các doanh nghiệp thực hiện hành vi chuyển giá gây thất thu cho ngân sách nhà nước, ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển kinh tế. Thực hiện tiết kiệm chi tiêu sao cho phù hợp với tình hình khó khăn hiện nay theo hướng ưu tiên cho các chương trình giảm nghèo, nông thôn mới. Bội chi ngân sách cần được kiểm soát chặt chẽ, nâng bội chi phải đi đôi với đầu tư công hiệu quả để tránh lạm phát. Rà soát những khoản chi thường xuyên không hợp lý, gây lãng phí. Bảo đảm tính hiệu quả và nâng cao chất lượng các khoản chi trong chi cho phúc lợi xã hội.
Năm là, việc điều chỉnh giá các mặt hàng cơ bản và dịch vụ công cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành liên quan và lộ trình hợp lý về thời điểm tăng giá, mức tăng giá… Thực hiện nghiêm Chỉ thị số 25/CT-TTg ngày 05 tháng 12 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường công tác quản lý điều hành nhằm bình ổn giá cả thị trường, bảo đảm trật tự an toàn xã hội trong dịp Tết Nguyên đán Giáp Ngọ 2014. Theo đó, cần bảo đảm cân đối cung - cầu hàng hóa, dịch vụ trong những tháng cuối năm và dịp Tết Nguyên đán; quản lý, điều hành các mặt hàng thiết yếu, dịch vụ công phù hợp nhằm giảm bớt khó khăn cho doanh nghiệp và giảm áp lực tăng giá trong các tháng cuối năm. Xử lý nghiêm các hành vi buôn lậu, gian lận thương mại, kinh doanh hàng giả, hàng kém chất lượng, đầu cơ, găm hàng đẩy giá lên cao hoặc tăng giá đột biến trong dịp Tết Nguyên đán.
Sáu là, tiếp tục thực hiện cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” cùng với triển khai Chương trình đưa hàng bình ổn về nông thôn. Mở rộng các nhóm hàng bình ổn cũng như thời gian phục vụ cùng với cải tiến phương thức thực hiện nhằm mang lại hiệu quả tốt hơn. Tăng cường kiểm tra các điểm bán hàng bình ổn giá về mặt hàng, giá bán. Kiên quyết xử lý nghiêm những trường hợp cố tình vi phạm. Nhân rộng mạng lưới các điểm bán hàng bình ổn và tập trung nhiều hơn đến các vùng nông thôn, khu vực đông dân cư, khu công nghiệp.
Bảy là, phát triển và đẩy mạnh hoạt động của các ngân hàng chính sách xã hội tại các địa phương, nhất là vùng sâu, vùng xa để người nghèo trên cả nước tiếp cận được với dịch vụ tài chính. Tăng cường đào tạo tay nghề cho người lao động cùng với đào tạo kỹ năng mềm để tăng cơ hội xin việc làm. Rà soát sửa đổi, bổ sung một số luật liên quan đến người lao động để khắc phục những tồn tại, bất cập, bảo đảm phù hợp với thực tiễn nhằm bảo vệ lợi ích, quyền lợi cho người lao động. Tập trung triển khai hiệu quả các biện pháp hỗ trợ người dân khắc phục hậu quả thiên tai, nhanh chóng phục hồi sản xuất và ổn định đời sống; hỗ trợ giống cây trồng, vật nuôi. Tạo điều kiện cho các hộ dân bị thiệt hại do bão, lũ tiếp tục vay vốn phục hồi sản xuất, kinh doanh./.
[1] IIP tháng Ba tăng 5,2%; tháng Tư tăng 4,8%; tháng Năm tăng 5,4%; tháng Sáu tăng 6,3%; tháng Bảy tăng 5,9%; tháng Tám tăng 5,4%; tháng Chín tăng 4,6%; tháng Mười tăng 8,1%; tháng Mười Một tăng 6,6%; tháng Mười Hai tăng 7%.
[2] IIP ngành CN chế biến, chế tạo các quý năm 2012 là: Quý I tăng 5,9%; quý II tăng 5,8%; quý III tăng 4,6% và quý IV tăng 5,4%).
[3] Tỷ lệ tồn kho tháng Một là 70%, tháng Hai là 93,5%; tháng Ba là 73,4%, tháng Tư là 74%, tháng Năm là 71%, tháng Sáu là 71,4%, tháng Bảy là 70%, tháng Tám là 70,7%; tháng Chín là 74%; tháng Mười là 72,4%; tháng Mười Một là 71,1%, bình quân 11 tháng là 73,7%.
[4] Số liệu đã được Chính phủ trình Quốc Hội tại kỳ họp thứ 6 Quốc Hội Khóa XIII
[5] CPI tháng 12 so với cùng kỳ năm trước của các năm 2004 - 2013 như sau: Năm 2004: 9,5%; năm 2005: 8,4%; năm 2006: 6,6%; năm 2007: 12,63%; năm 2008: 19,89%; năm 2009: 6,52%; năm 2010: 11,75%; năm 2011: 18,13%; năm 2012: 6,81%; năm 2013: 6,04%.

Nguồn tin: Tổng Cục Thống kê

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

 
Bài mới
Thống kê truy cập

Đang truy cậpĐang truy cập : 5

Hôm nayHôm nay : 133

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 16132

Tổng lượt truy cậpTổng lượt truy cập : 3959580